Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH L

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/02/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 02 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 557/2020/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, về việc “Tranh chấp ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị M, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh L.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1984 ; HKTT: số 130/11/19B Ng, phường 2, thành phố V, tỉnh V.

Địa chỉ hiện nay: ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh L. (Tất cả có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 06-12-2020, bản tự khai và các lời trình bày trong các Biên bản tại Toà án, nguyên đơn Đỗ Thị M trình bày:

Bà và ông Nguyễn Minh T quen biết nhau do tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn tại UBND Phường 2, thành phố V, tỉnh V ngày 10/10/2007. Sau khi đăng ký kết hôn thì hai vợ chồng ở Vĩnh Long cho đến năm 2016 chuyển về xã L cho đến nay. Thời gian đầu sống chung hạnh phúc nhưng sau này quá trình sống chung dần dần bắt đầu những mâu thuẫn, cho đến hơn 1 năm nay hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng do bất đồng quan điểm và thường xuyên cải vã nhau, từ tháng 9/2020 mâu thuẫn phát sinh trầm trọng nên bà và ông T đã ly thân từ tháng 10/2020 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th sinh ngày 13/8/2010 và Nguyễn Đỗ Minh Th1 sinh ngày 20/6/2015. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Minh T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, và tình trạng hôn nhân, con chung đúng như bà M trình bày, riêng về mâu thuẫn vợ chồng theo ông là không nghiêm trọng. Mối quan hệ vợ chồng vẫn tốt, chỉ thỉnh thoảng vợ chồng cải vã nhau do không hợp tính rồi bà M giận nên bỏ nhà đi ra ở trọ khoảng hơn 4 tháng nay. Ông vẫn còn thương vợ, thương con nên không muốn ly hôn nhưng bà M vẫn kiên quyết ly hôn nên ông đồng ý ly hôn.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th sinh ngày 13/8/2010 và Nguyễn Đỗ Minh Th1 sinh ngày 20/6/2015. Ông yêu cầu được quyền nuôi dưỡng hai con chung vì ông không có lỗi trong cuộc hôn nhân này. Không yêu cầu bà M cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quan điểm của Kiểm sát viên:

Về chấp hành pháp luật: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Bà M và ông T có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Bà M và ông T đã không còn sống chung, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau là đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Bà M yêu cầu ly hôn và ông T cũng đồng ý nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà M.

Về con chung: Bà M và ông T có hai con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th sinh ngày 13/8/2010 và Nguyễn Đỗ Minh Th1 sinh ngày 20/6/2015. Con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th có nguyện vọng được sống chung với cha, bà M cũng thừa nhận cháu thương đã có thể tự chăm sóc bản thân nên đồng ý theo nguyện vọng của con, do đó đề nghị giao con chung tên Thương cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th1 còn nhỏ cần có sự chăm sóc của người mẹ. Hơn nữa, ông T cũng trình bày tính chất công việc của ông làm theo ca, một tuần ca ngày một tuần ca đêm. Trong thời gian đi làm ca đêm thì người trực tiếp chăm sóc cháu Thiên là mẹ ruột của bà M hoặc bà M chăm sóc. Nếu mẹ bà M hoặc bà M không phụ giúp chăm sóc thì ông T sẽ gửi con về Vĩnh Long như vậy sẽ làm thay đổi cuộc sống ổn định của con chung vì vậy cần giao con chung tên Thiên cho bà M trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: cả bà M và ông T đều xác định không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Bà Đỗ Thị M yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Minh T. Căn cứ Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn”, ông T đang sinh sống tại ấp 4, xã L, huyện B, tỉnh L nên thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh L.

[3] Về hôn nhân: Bà Đỗ Thị M và ông Nguyễn Minh T có đăng ký kết hôn vào ngày 10/10/2007 tại UBND Phường 2, thành phố V, tỉnh V nên quan hệ hôn nhân giữa ông bà là hợp pháp. Theo bà M trình bày vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, hai bên không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, và đã không còn sinh hoạt với nhau từ tháng 10/2020 đến nay nên bà yêu cầu ly hôn với ông T. Ông T xác định mâu thuẫn vợ chồng không nghiêm trọng, ông vẫn còn thương vợ nhưng bà M kiên quyết ly hôn nên ông cũng đồng ý ly hôn với bà M. Do đó, Toà án chấp nhận cho bà Đỗ Thị M được ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

[4] Về con chung: Quá trình chung sống, bà M và ông T có hai con chung tên tên Nguyễn Đỗ Minh Th sinh ngày 13/8/2010 và Nguyễn Đỗ Minh Th1 sinh ngày 20/6/2015. Con chung hiện nay đang sống với ông T. Cả bà M và ông T đều yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th đã trên 7 tuổi có thể tự chăm sóc bản thân, có nguyện vọng được sống chung với cha, bà M cũng đồng ý theo nguyện vọng của con nên chấp nhận giao con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th cho ông T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. Riêng đối với con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th1 còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ. Hơn nữa ông T cũng thừa nhận trong thời gian ông đi làm ca đêm không thể chăm sóc con thì người trực tiếp chăm sóc con là mẹ ruột của bà M hoặc bà M chăm sóc, nếu sau ly hôn mẹ bà M hoặc bà M không phụ chăm sóc con thì ông sẽ đưa cả hai con về Vĩnh Long. Như vậy sẽ làm thay đổi môi trường sống ổn định của con chung, ảnh hưởng đến sự phát triển tâm sinh lý bình thường của trẻ. Trong khi hiện bà M đã có nhà tại xã L, công việc thời gian tự do hưởng lương theo sản phẩm, thu nhập ổn định và gần mẹ có thể phụ bà chăm sóc con khi bà bận. Xét thấy điều kiện nuôi con của Mến thuận lợi hơn hơn đối với ông T nên cần giao con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th1 cho bà M được trực tiếp nuôi dưỡng.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Bà M và ông T đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà M và ông Nhàn không yêu cầu giải quyết nên Toà án không xem xét. Nếu có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác khi có đơn yêu cầu.

[7] Về án phí: Bà Đỗ Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 207, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị M. Cho bà Đỗ Thị M ly hôn với ông Nguyễn Minh T.

2. Về con chung: Ông Nguyễn Minh T được quyền tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên tên Nguyễn Đỗ Minh Th sinh ngày 13/8/2010, bà Đỗ Thị M được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Đỗ Minh Th1 sinh ngày 20/6/2015, không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con mà không ai được cản trở. Bên không trực tiếp nuôi con không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Về án phí: Bà Đỗ Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002694 ngày 28/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh L. Bà Đỗ Thị M đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 16/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về