Bản án về tranh chấp ly hôn số 134/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 134/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/03/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 03 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1195/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp về ly hôn ” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 48/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà V T N , sinh năm: 1988 Địa chỉ: F1/57L, ấp 6, xã VLA,HBC,TPHCM ;

2. Bị đơn: Ông B V P , sinh năm: 1981 Địa chỉ: Nhà không số, tổ 5, ấp 4B, xã VLB,HBC,TPHCM . (Bà N và Ông P có đơn xin vắng mặt tại Tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 06/10/2020 và bản tự khai của Bà V T N trình bày:

Bà và Ông B V P bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2006, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Nhưng được một thời gian hai vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi vã nhau, không có tiếng nói chung trong cuộc sống. Ông bà đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được, nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Ông B V P .

Về con chung: Bà N và Ông P có 02 con chung tên B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 và B V C C , sinh ngày: 25/10/2011. Hiện trẻ T đang sống cùng Bà N còn trẻ C đang sống cùng Ông P . Sau khi ly hôn Bà N xin được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T đến trưởng thành và bà giao trẻ C cho Ông P nuôi dưỡng đến trưởng thành và không yêu cầu ai cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung: Bà N xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà N xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Theo bản tự khai ngày 29/01/2021 bị đơn Ông B V P trình bày: Ông và Bà V T N chung sống với nhau từ năm 2005, do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Lộc A, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông bà sống tới năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống. Hôm nay vợ ông xin ly hôn ông đồng ý.

Về con chung: Ông và Bà N có 02 con chung tên B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 và B V C C , sinh ngày: 25/10/2011. Sau khi ly hôn Ông P xin được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ C và ông giao trẻ T cho Bà N nuôi dưỡng đến trưởng thành, không yêu cầu ai cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung: Ông P xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Ông P xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông B V P vắng mặt trong các buổi hòa giải vụ án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của Ông P .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giả i quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà V T N đối với Ông B V P .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà V T N nộp đơn xin ly hôn đối với Ông B V P . Ông B V P hiện đang cư trú tại huyện Bình Chánh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông B V P và Bà V T N có đơn giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt Ông P và Bà N theo qui định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời Ông B V P đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa Bà V T N và Ông B V P nhưng Ông P không đến Tòa án để giải quyết. Tuy nhiên Ông P có nộp bản tự khai cho Tòa án và trình bày nguyện vọng là đồng ý ly hôn với Bà N và các vấn đề khác về con chung và tài sản chung, nợ chung.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 59, quyển số 01/2006 do Ủy ban nhân dân xã VLA,HBC,TPHCM cấp ngày 24/4/2006 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa Bà V T N và Ông B V P là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Bà N xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và Ông P không thể hàn gắn được, nên bà yêu cầu được ly hôn với Ông P để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà thì giữa bà và Ông P bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Hiện hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, như vậy vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa Ông P cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, đồng thời Ông P cũng nộp bản tự khai đồng ý ly hôn với Bà N . Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà V T N và Ông B V P .

[6] Về con chung: Bà V T N và Ông B V P có 02 con chung tên B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 và B V C C , sinh ngày: 25/10/2011. Hiện trẻ T đang sống cùng Bà N còn trẻ C đang sống cùng Ông P . Sau khi ly hôn Bà N xin trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T đến trưởng thành và giao trẻ C cho Ông P nuôi dưỡng đến trưởng thành. Bà N là người chăm sóc tốt cho trẻ T , Ông P là người chăm sóc tốt cho trẻ C , đồng thời ý kiến của trẻ T và trẻ C thì nếu ba mẹ không còn chung sống với nhau nữa thì trẻ T muốn sống với mẹ còn trẻ C muốn sống cùng với ba. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao trẻ B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 cho Bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và giao trẻ B V C C , sinh ngày: 25/10/2011 cho Ông P nuôi dưỡng là phù hợp, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với Ông P và Bà N cho đến khi Ông P và Bà N có yêu cầu.

Ông B V P và Bà V T N có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[7] Về tài sản chung: Bà N và Ông P xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[8] Về nợ chung: Bà N và Ông P xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[9] Về án phí: Bà V T N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Điều 203, Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84,116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà V T N với Ông B V P .

Giấy chứng nhận kết hôn số 59, quyển số 01/2006 do Ủy ban nhân dân xã VLA,HBC,TP HCM cấp ngày 24/4/2006 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà V T N và Ông B V P có 02 con chung tên B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 và B V C C , sinh ngày: 25/10/2011. Hiện trẻ T đang sống cùng Bà N còn trẻ C đang sống cùng Ông P . Sau khi ly hôn Bà N xin trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T đến trưởng thành và giao trẻ C cho Ông P nuôi dưỡng đến trưởng thành. Bà N là người chăm sóc tốt cho trẻ T , Ông P là người chăm sóc tốt cho trẻ C , đồng thời ý kiến của trẻ T và trẻ C thì nếu ba mẹ không còn chung sống với nhau nữa thì trẻ T muốn sống với mẹ còn trẻ C muốn sống cùng với ba. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ nên giao trẻ B V T T , sinh ngày: 06/11/2006 cho Bà N trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp và giao trẻ B V C C , sinh ngày: 25/10/2011 cho Ông P nuôi dưỡng là phù hợp, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với Ông P và Bà N cho đến khi Ông P và Bà N có yêu cầu.

Ông B V P và Bà V T N có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung: Bà N và Ông P xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà N và Ông P xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Bà V T N chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) mà Bà N đã nộp theo biên lai thu tiền số: AA/2019/0080410 ngày 10/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Bà N đã nộp án phí đầy đủ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 134/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:134/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về