Bản án về tranh chấp ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện X xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:239/2021/TLST-HNGĐ, ngày 08/12/2021 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:06/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 18/01/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp 3, xã MA, huyện X, tỉnh Long An.

* Bị đơn: Ông Hồ Nguyễn P, sinh năm 1978. Địa chỉ: Ấp 3, xã MA, huyện X, tỉnh Long An.

(Bà D có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông P vắng mặt.)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D trong suốt quá trình giải quyết vụ án có nội dung như sau:

Bà và ông P có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TH, huyện TH, tỉnh Long An ngày 15/8/2011. Thời gian đầu vợ chồng bà chung sống hạnh phúc, sau phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Ông P gia trưởng, thường mắng chửi bà làm cuộc sống hôn nhân ngày càng rạn nứt và không thể hàn gắn. Bà và ông P đã ly thân hơn 1 năm. Hiện nay, bà đang làm công nhân ở khu công nghiệp TH, thu nhập từ 11.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng và đang ở trọ. Nay không thể hàn gắn được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông P.

Về con chung: Bà và ông P có hai người con chung tên Hồ Nguyễn Ph sinh ngày 10/11/2005 và Hồ Thị Kim Ng, sinh ngày 09/12/2016. Tại đơn khởi kiện ngày 12/11/2021, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng KN, còn ông P thì nuôi dưỡng Ph không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Nay bà đồng ý giao hai con chung cho ông P nuôi dưỡng do con hiện đang sống với ông P, có chỗ ở ổn định. Bà chỉ yêu cầu được về thăm con, ông P không được cản trở việc thăm con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Hồ Nguyễn P trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt, không làm bản tự khai, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, không cung cấp bất kỳ tài liệu, chứng cứ nào và không có văn bản ý kiến phản hồi hay yêu cầu gì đối với việc khởi kiện của bà D, cũng như vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm.

Tòa án tiến hành thụ lý vụ án, hòa giải nhưng không được do bị đơn vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Thủ tục tố tụng:

Bà Nguyễn Thị D nộp đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Hồ Nguyễn P. Căn cứ nơi cư trú của bị đơn, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện X theo quy định tại Điều 28 và Điều 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Bà Nguyễn Thị D có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông Hồ Nguyễn P vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để xét xử nên Tòa án giải quyết vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Nội dung:

Ông Hồ Nguyễn P vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà D. Căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự “Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản, kết luận của cơ quan chuyên môn mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đó không phải chứng minh”.

Xét yêu cầu khởi kiện của bà D:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà D và ông P được pháp luật công nhận là vợ chồng. Nay Bà D kiên quyết xin ly hôn với ông Pvìkhông thể tiếp tục cuộc sống hôn nhân này. Ông P không đưa ra được bất kỳ giải pháp nào để hàn gắn và vắng mặt suốt quá trình giải quyết vụ án thể hiện ông không có thiện chí hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này. Do đó, Hội đồng xét xử xác định mâu thuẫn trong hôn nhân giữa 2 bên là trầm trọng, yêu cầu xin ly hôn của bà D có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về nuôi con chung:

Bà Dđồng ý giao 02 con chung tên Hồ Nguyễn Ph sinh ngày 10/11/2005 và Hồ Thị Kim Ng, sinh ngày 09/12/2016 cho ông P nuôi dưỡng do hai con chung ở với ông P từ nhỏ đến giờ, có chỗ ở ổn định trong khi bà thì đang ở trọ.

Xét thấy, con chung Hồ Nguyễn Ph có nguyện vọng sống với ông P và hai con chung đang ở với ông P có cuộc sống ổn định. Nhằm không làm thay đổi hoàn cảnh sống ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý trẻ do đó chấp nhận yêu cầu của bà D, giao 02 con chung tên Ph, KN cho ông P trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà D xác định khi có điều kiện kinh tế hơn thì bà sẽ cho con còn hiện tại bà không cấp dưỡng. Do ông P không yêu cầu hay phản hồi gì nên bà D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng bà D được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chung thì cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền làm đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con; mức cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về nợ chung: Cho đến khi xét xử sơ thẩm, không có ai khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết về việc nợ chung của vợ chồng bà D và ông P nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết trong vụ án này, nếu sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác theo quy định pháp luật.

[2.4] Về tài sản chung: Bà D và ông P không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét.

Từ các phân tích trên, yêu cầu khởi kiện của bà D là có căn cứ chấp nhận toàn bộ.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự,Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Ông P không phải chịuán phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;

Áp dụng Điều 56, 81, 82, 83, 84, 117 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D về việc “Ly hôn” đối với ông Hồ Nguyễn P.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị D được ly hôn với ông Hồ Nguyễn P.

2/ Về con chung:

Giao 02 con chung tên Hồ Nguyễn Ph sinh ngày 10/11/2005 và Hồ Thị Kim Ng, sinh ngày 09/12/2016 cho ông Hồ Nguyễn P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Bà Nguyễn Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con do ông P không yêu cầu.

Mặc dù không trực tiếp nuôi dưỡng con chung, nhưng bà Nguyễn Thị D được quyền đến thăm, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản. Vì lợi ích của con chung thì cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình có quyền làm đơn yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con; mức cấp dưỡng nuôi con.

3/ Về án phí:

Bà Nguyễn Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hônnhưng được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002110, ngày 03/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện X, tỉnh Long An. Bà Nguyễn Thị D không phải nộp thêm.

Ông Hồ Nguyễn P không phải chịu án phí.

4/ Án xử sơ thẩm, bà Nguyễn Thị D, ông Hồ Nguyễn P được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ hoặc từ ngày niêm yết bản án.

5/ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

112
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về