TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1288/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Trong các ngày 17 và 21 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 104/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2020 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3816/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông P FRANCESCO, sinh năm 1956. Quốc tịch: Italia.
Địa chỉ: FDomenico, V. Guerrazzi 4, Milano Italy.
Địa chỉ liên lạc: Số 28, Đường số A, phường P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có mặt) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H, Luật sư Công ty Luật hợp danh HCM.
Địa chỉ: số 19 – 21 N, Phường H, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có mặt) Người phiên dịch cho nguyên đơn: Ông Nguyễn Trần Hoàng D, sinh năm 1976.
Địa chỉ: 87/13 K, phường H, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Bà Dương Thị P, sinh năm 1988.
Thường trú: ấp M, xã Đ, huyện C tỉnh An Giang.
(Có mặt) Địa chỉ liên lạc: Số 28, Đường số A, phường P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Có mặt tại phiên tòa – Vắng mặt lúc tuyên án)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 06/3/2020, bản tự khai ngày 11/5/2020 của nguyên đơn ông P FRANCESCO trình bày:
Ông và bà Dương Thị P tự nguyện kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số vào sổ đăng ký kết hôn 97, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cấp ngày 21/3/2008. Trong 12 năm chung sống ông bà có 01 con trai và từ khi sinh con bà P bắt đầu hỏi xin tiền ông để trả nợ cho ba mẹ bà, ông đã nói với bà P rằng ông kết hôn với bà chứ không phải gia đình bà. Từ đó ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn. Mỗi lần bà P xin tiền đều nói đây là lần nợ cuối cùng nhưng số tiền mỗi lần bà P nói càng ngày càng lớn dần. Trong 03 năm qua, ông đã đưa cho bà P 08 tỷ đồng để trả nợ, số tiền này để giúp gia đình bà P. Bà P chỉ xem ông và con trai ông là thứ hai, gia đình bà P là thứ nhất. Lần vừa rồi ông có trở về Ý vào tháng 1 vừa qua để mổ mắt. Bà P không hề gọi điện thoại hỏi thăm sức khỏe của ông nhưng bà P chỉ gọi điện xin 500.000.000 đồng khi bà P ở Châu Đốc, trong thời gian dài chỉ có ông gọi điện thoại cho bà và bà luôn nói dối ông. Ông không biết đâu là lời nói thật. Hiện tại ông không còn sống chung với bà P bởi vì ông không còn tin tưởng bà nữa. Do vậy ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà P.
Con chung: Ông P FRANCESCO khai quá trình chung sống có 01 con chung tên PE Ssinh ngày 11/7/2009. Ông đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bà Dương Thị P cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Ông P FRANCESCO khai không có.
Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 11/5/2020 bà Dương Thị P trình bày:
Bà và ông P FRANCESCO là vợ chồng, ông bà tự tìm hiểu, tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số vào sổ đăng ký kết hôn số 97 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cấp ngày 27/3/2008. Ông bà chung sống với nhau tại nhà bà ấp M, xã Đ, huyện C, tỉnh An Giang từ năm 2008 đến tháng 6/2015 thì chuyển lên Thành phố Hồ Chí Minh chung sống tại địa chỉ Số 28, Đường số A, phường P, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cho đến hiện tại.
Thời điểm tháng 01/2020 ông P FRANCESCO về nước ngoài mổ mắt, thời điểm đó bà thừa nhận bà có lỗi không có hỏi thăm, quan tâm tới ông P FRANCESCO vì thời điểm đó cha bà bị tai biến, bà lo cho cha mẹ dưới nhà ở An Giang. Vì còn tình cảm với ông P FRANCESCO và vì con bà không muốn ly hôn với ông P FRANCESCO.
Con chung: Bà Dương Thị P khai quá trình chung sống có 01 con chung tên PE S sinh ngày 11/7/2009. Nếu trường hợp ly hôn thì bà đồng ý để ông P FRANCESCO nuôi con chung đến tuổi trưởng thành. Bà sẽ cấp dưỡng nuôi con chung 5.000.000 đồng/tháng.
Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Bà Dương Thị P khai không có.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 14/7/2020 trẻ PE S có nguyện vọng được ở với ba.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày: Đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông P FRANCESCO cho ông P FRANCESCO được ly hôn với bà P vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt từ tài chính. Con chung đề nghị giao cho ông P FRANCESCO tiếp tục nuôi dưỡng không cần bà P cấp dưỡng. Tài sản chung: Hai vợ chồng đã thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nguyên đơn ông P FRANCESCO trình bày:
- Ông không muốn quay lại với bà P, lý do ông muốn ly hôn là do ông và bà P có sự khác biệt cuộc sống, ông không còn tin tưởng bà P. Ông kết hôn với bà P vì bà P chứ không phải vì gia đình bà P, cha mẹ bà P. Đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà P.
- Nếu ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là PE Sinh ngày 11/7/2009, không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con chung.
- Tài sản chung: Tự thỏa thuận.
Bị đơn bà Dương Thị P trình bày: Bà không đồng ý ly hôn với ông P FRANCESCO vì vợ chồng bà chưa giải quyết về tài sản chung. Bà đồng ý ly hôn với điều kiện ông P FRANCESCO và bà phân chia tài sản vợ chồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Việc tuân thủ pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán chủ tọa đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về “Nguyên tắc xét xử, thành phần hội đồng xét xử, sự có mặt của các thành viên trong hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa; Phạm vi xét xử sơ thẩm” tại phiên tòa sơ thẩm.
Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông P FRANCESCO được ly hôn với bà Dương Thị P. Giao con chung tên PE Ssinh ngày 11/7/2009 cho Ông P FRANCESCO trực tiếp nuôi dưỡng, không yêu cầu bà P cấp dưỡng. Tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
- Về thẩm quyền giải quyết: Xét yêu cầu của nguyên đơn thuộc tranh chấp về ly hôn, nguyên đơn ông P FRANCESCO là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, điểm d Khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về nội dung vụ án: Xét yêu cầu ly hôn của ông P FRANCESCO, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số vào sổ đăng ký kết hôn số 97 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cấp ngày 27/3/2008 có đủ cơ sở để xác định quan hệ hôn nhân giữa ông P FRANCESCO và bà Dương Thị P là hôn nhân hợp pháp.
Theo lời khai của ông P FRANCESCO tại bản tự khai, phiên hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay thì cuộc sống hôn nhân của vợ chồng ông không hạnh phúc, quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, hiện ông không còn tình cảm và tin tưởng bà P nên mong muốn được ly hôn với bà P. Bà P cũng xác định tại biên bản lấy lời khai vợ chồng có mâu thuẫn về chuyện tiền bạc, tháng 01/2020 ông P FRANCESCO về nước mổ mắt, bà có lỗi không hỏi thăm quan tâm do thời điểm đó cha bà bị tại biến, bà phải lo cho cha mẹ ở An Giang. Ông P FRANCESCO đã tự nguyện cho tiền bà và gia đình, bà không có đòi hỏi ông P FRANCESCO về chuyện tiền bạc, đối với yêu cầu ly hôn bà không muốn ly hôn vì muốn có thời gian hàn gắn tình cảm vợ chồng, sửa chữa sai lầm để nuôi dạy con chung. Hội đồng xét xử cũng đã cố gắng hòa giải để các bên tự thỏa thuận giải quyết vụ án nhưng ông P FRANCESCO vẫn cương quyết xin ly hôn, bà P đồng ý ly hôn với ông P FRANCESCO với điều kiện ông P FRANCESCO phải chia tài sản cho bà P. Ông P FRANCESCO cho rằng vì mong muốn được ly hôn với bà P nên ông đã thỏa thuận chia tài sản chung như bà P yêu cầu để cho con tài sản chung là căn nhà Quận 7 đang ở, còn nhà ở An Giang thì để cho bà P. Tài sản chung ông đã giải quyết xong với bà P. Xét thấy, cả hai đều thừa nhận cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tồn tại nhiều mâu thuẫn, ông P FRANCESCO vẫn cương quyết xin ly hôn với bà P, bà P tuy không đồng ý ly hôn nhưng không đưa ra được các biện pháp hàn gắn. Tại các buổi làm việc của Tòa án tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự, bà P có mặt nhưng nhiều lần không muốn tiếp tục làm việc và bỏ ra về. Như vậy, bà P cũng không thực sự quan tâm đến cuộc hôn nhân này, không có nỗ lực, thiện chí hàn gắn mối quan hệ hay duy trì tình cảm vợ chồng. Mặt khác, tại phiên tòa bà đồng ý ly hôn với ông P FRANCESCO với điều kiện phải chia tài sản vợ chồng. Bà không có đơn yêu cầu tại phiên phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ do đó bà P được quyền khởi kiện tranh chấp tài sản sau khi ly hôn khi có yêu cầu.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông P FRANCESCO là phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng như lời đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Con chung: Căn cứ vào Giấy khai sinh số 61 quyển số 01 do Sở Tư pháp tỉnh An Giang cấp ngày 19/8/2009 cùng lời khai của ông P FRANCESCO và bà Dương Thị P thể hiện quá trình chung sống ông bà có 01 con chung tên PESÂM sinh ngày 11/7/2009. Ông P FRANCESCO đề nghị được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng trẻ PESÂM, không yêu cầu bà Dương Thị P cấp dưỡng nuôi con chung.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Trẻ PESÂM từ khi sinh cho đến nay sống với cả hai vợ chồng nhưng qua biên bản lấy lời khai, trẻ PESÂM có nguyện vọng được chung sống với cha. Nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của ông P FRANCESCO là xuất phát từ tình thương và trách nhiệm đối với con, bà P cũng đồng ý nếu ly hôn để ông P FRANCESCO được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ PESÂM đến tuổi trưởng thành, do đó để đảm bảo cho sự phát triển bình thường của trẻ không làm xáo trộn đời sống, học tập cũng phù hợp với nguyện vọng của trẻ nên tiếp tục giao con chung PESÂM, sinh ngày 11/7/2009 cho ông P FRANCESCO trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi trẻ thành niên quy định tại Khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Đối với cấp dưỡng nuôi con chung: Ông P FRANCESCO không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa bà P cũng không có ý kiến gì nên tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho bà P đến khi nào ông P FRANCESCO có yêu cầu.
Quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Nợ chung: Ông P FRANCESCO và bà Dương Thị P khai không có.
[3] Án phí:
Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông P FRANCESCO có làm đơn đề nghị miễn tiền án phí vì thuộc trường hợp người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009. Căn cứ theo điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí cho ông P FRANCESCO. Hoàn lại cho ông P FRANCESCO số tiền tạm ứng án phí 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, khoản 1 Điều 37, khoản 2 Điều 38, Khoản 1 Điều 147, Điều 227; Khoản 1 Điều 273; Điều 464; điểm d Khoản 1, Khoản 2 Điều 469, Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Căn cứ khoản 1 Điều 51; Điều 53, Điều 54, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 85, Điều 86, Điều 87, Điều 122, Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;
Áp dụng Điều 2 Luật Người cao tuổi năm 2009, khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông P FRANCESCO. Quan hệ hôn nhân: Ông P FRANCESCO được ly hôn với bà Dương Thị P.
Giấy chứng nhận kết hôn số vào sổ đăng ký kết hôn số 97 quyển số 01 do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang cấp ngày 27/3/2008 cho ông P FRANCESCO và bà Dương Thị P không còn giá trị pháp lý.
Con chung: Giao con chung PES, sinh ngày 11/7/2009 cho ông P FRANCESCO trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho bà P đến khi nào ông P FRANCESCO có yêu cầu.
Bà P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Ông P FRANCESCO có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà P nếu bà P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích; Cơ quan quản lý Nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý Nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ thì Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.
2/ Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn ông P FRANCESCO không phải chịu. Hoàn lại cho ông P FRANCESCO số tiền 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0045820 ngày 10/3/2020 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.
3/ Án xử sơ thẩm, thời hạn kháng cáo của ông P FRANCESCO là 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bà Dương Thị P thời hạn kháng cáo là 15 (Mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 1288/2020/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 1288/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về