Bản án về tranh chấp ly hôn số 124/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN G, TỈNH LA

BẢN ÁN 124/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cần G, tỉnh LA, Tòa án nhân dân huyện Cần G xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 523/2022/TLST-HNGĐ, ngày 05/8/2022, về “ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 124/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày: 26/8/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Q, sinh năm: 1984, cư trú: Ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần G, tỉnh LA. (vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Võ Việt A, sinh năm: 1978, cư trú: Ấp Tân Thanh B, xã Phước Lại, huyện Cần G, tỉnh LA. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 01/8/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là Chị Trương Thị Q trình bày:

Chị Trương Thị Q và Anh Võ Việt A xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Long H, huyện Cần G, tỉnh LA vào ngày 20/12/2006. Hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc trong thời gian đầu. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị sống chung với gia đình anh ở xã Long H đến năm 2013 thì chuyển về sinh sống ở xã Phước Lại. Nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến Chị Q yêu cầu ly hôn là do vợ chồng khác nhau về quan điểm sống, không thấu hiểu nhau, Anh A không lo làm ăn, làm ra bao nhiêu tiền thì trả nợ hết, không phụ giúp Chị Q tiền nuôi con. Anh A thường xuyên đi uống rượu bia, gây nợ. Vợ chồng không còn sống chung khoảng 01 tháng nay, nhưng không còn quan tâm chăm sóc từ 06 tháng trước. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Chị Q yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q yêu cầu ly hôn với Anh A.

Về con chung: Chị Q và Anh A có con chung tên là X và Y. Hiện hai cháu đang sống chung với Chị Q. Khi ly hôn, Chị Q yêu cầu nuôi hai cháu, không yêu cầu Anh A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận, Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là Anh Võ Việt A đã được Tòa án tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các văn bản tố tụng khác hợp lệ, cũng như triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai, nhưng Anh A đều vắng mặt không có lý do. Anh A cũng không có văn bản gửi cho Tòa án thể hiện ý kiến của anh đối với yêu cầu ly hôn của Chị Q.

[1] Về tố tụng:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào nơi cư trú của bị đơn và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cần G được pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 của các Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Trương Thị Q yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt. Anh Võ Việt A đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai, nhưng Anh A đều vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự để giải quyết vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Theo Giấy chứng nhận kết hôn số 108 ngày 29/12/2006 do Ủy ban nhân dân xã Long H, huyện Cần G, tỉnh LA cấp thì Chị Trương Thị Q và Anh Võ Việt A là vợ chồng hợp pháp.

[2.2] Chị Q và Anh A xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2016, cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc. Sau đó, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo Chị Q trình bày là do vợ chồng khác nhau về quan điểm sống, không thấu hiểu nhau, Anh A không lo làm ăn, làm ra bao nhiêu tiền thì trả nợ hết, không phụ giúp Chị Q tiền nuôi con. Anh A thường xuyên đi uống rượu bia, gây nợ. Vợ chồng hiện không còn sống chung, không còn quan tâm chăm sóc nhau. Thời gian không sống chung, Chị Q và Anh A không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án có mở phiên hòa giải, nhưng anh, chị không thể đoàn tụ được. Tòa án đã triệu tập hợp lệ Anh A tham gia phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai, nhưng Anh A vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa Chị Q và Anh A đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không còn đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của Chị Q là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Q và Anh A có con chung tên là X và Y. Hiện hai cháu đang sống chung với Chị Q, điều kiện sống của cháu đã ổn định. Do đó, căn cứ vào Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao Chị Q tiếp tục nuôi dưỡng con chung là X và Y. Việc giao hai cháu cho Chị Q nuôi dưỡng cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Lâm và cháu Yến.

Về mức cấp dưỡng: Chị Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Q không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[2.4] Về án phí: Chị Trương Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Tạm ứng án phí Chị Q đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004846, ngày 02/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cần G chuyển sang án phí sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39 và Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 85 và 86 của Luật Hôn nhân và gia đình; Áp dụng khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Trương Thị Q đối với Anh Võ Việt A.

1. Về hôn nhân: Chị Trương Thị Q được ly hôn với Anh Võ Việt A.

2. Về con chung: Chị Trương Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng các con chung tên là X và Y. Anh Võ Việt A không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí: Chị Trương Thị Q phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm. Tạm ứng án phí Chị Q đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004846, ngày 02/8/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cần G chuyển sang án phí sung quỹ Nhà nước.

Án sơ thẩm, các đương sự vắng mặt kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày án tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 124/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:124/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cần Giuộc - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về