Bản án về tranh chấp ly hôn số 1208/2022/HNGĐ-ST

 TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1208/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 686/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 301/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 239/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Đinh Thị Tâm H, sinh năm 1981 Địa chỉ: Số 769/166A đường H, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh;

2. Bị đơn: Ông Lý Thanh D, sinh năm 1974 Địa chỉ: Số 769/166A đường H, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ nguyên đơn bà Đinh Thị Tâm H trình bày:

Bà H và ông Lý Thanh D tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2001 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22/2001, quyển số 01 cấp ngày 12/02/2001). Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2019 mâu thuẫn phát sinh vì đời sống chung không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông D không quan tâm chăm sóc gia đình nên vợ chồng thường xuyên cải vã với nhau làm cho đời sống hôn nhân luôn luôn căng thẳng, ngột ngạt nên đã ly thân từ năm 2019 cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Dù bà H đã nhiều lần khuyên nhủ, cố gắng hàn gắn hạnh phúc nhưng không thành, nay tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Đinh Thị Tâm H yêu cầu được ly hôn với ông Lý Thanh D.

Về con chung: Bà H xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung tên Lý Quốc B, sinh ngày 22/11/2001 (hiện đã thành niên) và Lý Quốc D, sinh ngày 08/7/2009. Ngoài ra vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác. Hiện các con đang ở với bà Hiếu, do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi trẻ D, không yêu cầu ông Lý Thanh D cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lý Thanh D đã được Tòa án tống đạt, triệu tập nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không thể thu thập được lời khai và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và nguyên đơn đã tuân thủ đúng thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến khi xét xử; Bị đơn chưa chấp hành đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định: [1] Về tố tụng:

Bị đơn ông Lý Thanh D đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải mà vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải được theo Điều 207 và Điều 208 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đồng thời, ông D đã được triệu tập đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Nguyên đơn bà Đinh Thị Tâm H có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ vào Khoản 2 Điều 227 và Khoản 1, Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đối với các đương sự.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị Tâm H thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, do bị đơn ông Lý Thanh D cư trú tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự:

[3.1] Xét thấy, bà Đinh Thị Tâm H và ông Lý Thanh D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số 22/2001, quyển số 01 cấp ngày 12/02/2001 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Xét yêu cầu của bà H xin được ly hôn với ông Lý Thanh D.

Hội đồng xét xử nhận thấy, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai phải có sự thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, cùng giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt, cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Thế nhưng, giữa bà H và ông D đã không còn sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau mà người nào chỉ biết bổn phận người đó, mạnh ai nấy sống. Mặc dù, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông D đến Tòa để tạo điều kiện cho vợ chồng hòa giải, đoàn tụ, hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng ông D vẫn vắng mặt điều này thể hiện ông D không còn tha thiết đến việc hàn gắn hạnh phúc gia đình. Tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã phát sinh trầm trọng trong một thời gian dài, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.3] Về con chung: Bà H xác định các con hiện đang ở với bà Hiếu, do bà H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Đồng thời, xét nguyện vọng của trẻ Lý Quốc D tại Bản tự khai thể hiện “Con có nguyện vọng được ở với mẹ, vì mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng con từ nhỏ”. Trẻ D cũng đang trong giai đoạn học tập, hình thành nhân cách nên cần có sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Nay bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi trẻ D, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với nguyện vọng của trẻ. Mặt khác, ông D cũng không đến Tòa tự khai và giải quyết vụ án nên cũng không thể hiện được ý kiến của ông về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con. Do đó, để bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con chung, việc giao con chung cho bà H tiếp tục nuôi con, tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Hiếu cho đến khi bà H có yêu cầu là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ông Lý Thanh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai có quyền ngăn cản, vì quyền lợi của con, khi có yêu cầu của một hoặc hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại các Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và Gia đình.

[3.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Xét, ý kiến phát biểu và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên có căn cứ chấp nhận.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015; Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng.

[6] Quyền kháng cáo: Bà Đinh Thị Tâm H và ông Lý Thanh D có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 8, Điều 9, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82; Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 207, Điều 208, Khoản 2 Điều 227, Khoản 1 và Khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào Luật Phí và Lệ phí năm 2015;

Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của khởi kiện của nguyên đơn bà Đinh Thị Tâm H.

Về hôn nhân: Bà Đinh Thị Tâm H được ly hôn ông Lý Thanh D. (Giấy chứng nhận kết hôn số 22/2001, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân Phường 4, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/02/2001 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật).

Về con chung: Bà H xác định vợ chồng có 02 (hai) con chung tên Lý Quốc B, sinh ngày 22/11/2001 (hiện đã thành niên) và Lý Quốc D, sinh ngày 08/7/2009. Ngoài ra, vợ chồng không còn con chung, con nuôi nào khác. Giao trẻ Lý Quốc D cho bà Đinh Thị Tâm H trực tiếp nuôi con. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con cho ông Lý Thanh D cho đến khi bà H có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc người thân thích, Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác định trong quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm ngàn) đồng bà Đinh Thị Tâm H phải chịu nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số AA/2021/ 0017115 ngày 16 tháng 6 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã thi hành xong phần án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

3. Về Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự; Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014); Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2014)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1208/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1208/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về