Bản án về tranh chấp ly hôn số 120/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 120/2023/HNGĐ-ST NGÀY 14/12/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 14 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 333/2023/TLST - HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 123/2023/QĐXXST - HNGĐ ngày 27 tháng 11 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H. Sinh năm: 1992.

Địa chỉ: Nhà ông Nguyễn Văn S, bà Bùi Thị C, thôn T, xã T, huyện L, tỉnh L.

2. Bị đơn: Anh Đoàn Như T. Sinh năm: 1993.

Địa chỉ: Tổ dân phố P, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh L.

(Chị H có mặt; anh T có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn ly hôn và bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị và anh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2017, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L vào năm 2017. Cuộc sống chung của vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị bất đồng với nhau về quan điểm sống, lối sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Anh T thường xuyên chơi bời, không lo làm ăn kinh tế, không quan tâm đến vợ con. Mặc dù vợ chồng anh chị đã nhiều lần nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn lại tình cảm nhưng không được. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2023 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị xác định vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con chung. Chị không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn anh Đoàn Như T trình bày: Anh và chị H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2017, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L vào năm 2017. Cuộc sống chung của vợ chồng anh chị vẫn hòa thuận, hạnh phúc chứ không sảy ra mâu thuẫn gì. Đôi khi trong cuộc sống vợ chồng cũng có cãi vã nhưng không trầm trọng đến mức phải ly hôn. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nên vợ anh đã đuổi anh ra khỏi nhà vì vậy vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ tháng 6/2023 cho đến nay. Nay anh xác định vẫn còn tình cảm với chị H nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Về con chung: Anh xác định vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022. Nếu phải ly hôn anh đồng ý giao con chung cho vợ anh chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh xác định vợ chồng anh chị không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không được với lý do anh T có đơn xin hòa giải vắng mặt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị H. Xử cho chị H và anh T được ly hôn. Về con chung: Giao con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022 cho chị H có trách nhiệm chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H, anh T xác định về tài sản chung, nợ chung vợ chồng anh chị không có tài sản chung, nợ chung. Vì vậy, không đặt ra để xem xét, giải quyết.

Về án phí: Buộc chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tại phiên toà, bị đơn anh Đoàn Như T vắng mặt tại phiên Tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt nên cần căn cứ khoản 1 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh T theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2017 trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L vào ngày 09/8/2017 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Tại phiên Tòa, chị H xác định mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã trầm trọng kéo dài, không còn khả năng cải thiện nên chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với anh T. Chị H cho rằng cuộc sống chung của vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc đến đầu năm 2023 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng anh chị bất đồng với nhau về quan điểm sống, lối sống, vợ chồng không có tiếng nói chung. Anh T thường xuyên chơi bời, không lo làm ăn kinh tế, không quan tâm đến vợ con. Mặc dù vợ chồng anh chị đã nhiều lần nói chuyện để giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn lại tình cảm nhưng không được. Vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2023 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T. Anh T không đồng ý ly hôn với chị H với lý do cuộc sống chung của vợ chồng anh chị vẫn hòa thuận hạnh phúc chứ không sảy ra mâu thuẫn gì. Đôi khi trong cuộc sống cũng có cãi vã nhưng không trầm trọng đến mức phải ly hôn. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ vợ anh đã đuổi anh ra khỏi nhà nên vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ tháng 6/2023 cho đến nay. Nay anh xác định anh vẫn còn tình cảm với chị H nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Xét thấy, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng anh T, chị H bất đồng với nhau về quan điểm sống, lối sống, vợ chồng không thông cảm chia sẽ cho nhau trong cuộc sống vợ chồng từ đó vợ chồng anh chị thường xuyên sảy ra mâu thuẫn và sô sát với nhau. Do sảy ra mâu thuẫn nên anh chị đã tự sống ly thân. Trong thời gian sống ly thân tình cảm vợ chồng anh chị vẫn không cải thiện được. Đồng thời qua xác minh tại chính quyền địa phương thì được biết nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng anh chị là do vợ chồng anh chị bất đồng với nhau về quan điểm sống, lối sống, vợ chồng anh chị không nhường nhịn nhau. Anh T thường xuyên chơi bời, không chăm lo làm ăn, vợ chồng anh chị cũng đã sống ly thân từ đầu năm 2023 cho đến nay. Vì vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các bên do mâu thuẫn đã kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H, xử cho chị H và anh T được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3]Về con chung: Chị H và anh T xác định vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022. Khi ly hôn chị H được yêu cầu nuôi hai con chung. Anh T cho rằng nếu phải ly hôn thì anh cũng đồng ý giao con chung cho chị H chăm sóc, nuôi dưỡng. Xét thấy, từ khi vợ chồng anh T, chị H sống ly thân cho đến nay các con chung đều do chị H, chăm sóc, nuôi dưỡng. Để đảm bảo cho sự phát triển bình thường của các cháu nên cần căn cứ khoản 1 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022 cho chị H có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị H, anh T xác định về tài sản chung vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về nợ chung: Chị H, anh T xác định vợ chồng anh chị không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Buộc chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 53; khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 1 Điều 227; Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận đơn ly hôn của chị Nguyễn Thị H, xử cho chị Nguyễn Thị H và anh Đoàn Như T được ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Đoàn Quang N, sinh ngày 07/12/2017 và cháu Đoàn Nhật M, sinh ngày 18/6/2022 cho chị Nguyễn Thị H có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; Quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000096 ngày 03 tháng 10 năm 2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/12/2023), nguyên đơn có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 120/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:120/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về