Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC TRỌNG, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 04 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 405/2021/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Nguyễn Thủy T, sinh năm 1987. Trú tại: Số Y, Phường A, thành phố L, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: Ông Trần Thái Đ, sinh năm 1987.

Trú tại: Số C, thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/10/2021, bản tự khai và lời khai tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Nguyễn Thủy T trình bày: Bà và ông Trần Thái Đ kết hôn vào năm 2017, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, có tổ chức lễ cưới, có thời gian tìm hiểu 01 năm. Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2018 thường xuyên phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn do ông Đ không có công việc ổn định, không lo làm ăn còn bà mang bầu và sinh con không có thu nhập, vợ chồng sống phụ thuộc vào gia đình chồng nên vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn về tài chính, bà phải về nhà cha mẹ sinh sống, làm việc để kiếm tiền nuôi con. Trong thời gian này ông Đ có quan hệ ngoại tình, bà đã nhiều lần khuyên giải để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng ông Đ không có sự thay đổi; ông Đ cũng không hỗ trợ về kinh tế để nuôi dưỡng con nên tình cảm rạn nứt không thể hàn gắn được, vợ chồng không có sự tôn trọng tin tưởng nhau. Hiện nay ông bà đã chấm dứt cuộc sống chung từ ngày 20/10/2021, không còn sự quan tâm và trách nhiệm đối với nhau. Bà Trần Nguyễn Thủy T xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không có khả năng hòa giải đoàn tụ nên bà yêu cầu ly hôn với ông Trần Thái Đ.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018. Khi ly hôn, bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến ngày thành niên và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay bà làm nhân viên nấu ăn cho công ty TNHH TN với thu nhập 10.000.000đồng/tháng; thời gian làm việc vào buổi sáng còn buổi chiều được nghỉ nên đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng con. Hiện nay bà và cháu Trần Khả N đang ở nhà cùng cha mẹ tại địa chỉ số Số Y, Phường A, thành phố L, tỉnh Lâm Đồng; điều kiện của bà đảm bảo việc nuôi con chung. Bà Trần Nguyễn Thủy T không đồng ý giao con cho ông Trần Thái Đ nuôi dưỡng với lý do ông Đ không quan tâm đến vợ con, trong thời gian vợ chồng cùng chung sống việc chăm sóc, nuôi dưỡng con là do bà đảm nhiệm và hiện nay ông Đ có mối quan hệ với người phụ nữ khác.

Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/12/2021 và lời khai tại phiên tòa, bị đơn ông Trần Thái Đ trình bày: Hôn nhân giữa ông bà tự nguyện, đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Quá trình vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng khác biệt về cách sống, bà T không thích sống chung với chồng mà thường xuyên đưa con lên nhà cha mẹ tại Đ sinh sống dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt không hàn gắn được, hiện nay vợ chồng không còn chung sống với nhau và đều không có thiện chí hòa giải. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không có khả năng hòa giải đoàn tụ, mâu thuẫn trầm trọng nên ông đồng ý ly hôn với bà Trần Nguyễn Thủy T.

Về con chung: Ông bà có có 01 con chung Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018. Khi ly hôn, ông Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018 cho đến ngày thành niên và không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay ông Đ làm lái xe cho công ty K thu nhập ổn định 10.000.000đ/tháng và có thu nhập cà phê trên đất của gia đình 200.000.000đ đến 250.000.000đ/năm; ông có nhà riêng tại số C, thôn P, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng, có sự giúp đỡ của ông bà nội trong chăm sóc cháu. Ông không đồng ý giao con cho bà T nuôi dưỡng vì điều kiện nhà cửa chật chội không đảm bảo cho việc sinh sống và môi trường giao tiếp của cháu; bà T có cách chăm sóc, giáo dục con nghiêm khắc.

Về tài sản chung, nợ chung: Hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các đương sự không thỏa thuận giải quyết vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng:

Việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán xác định quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết đúng theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; xác định đúng tư cách tố tụng theo quy định tại Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự; việc xác minh thu thập chứng cứ, giao nhận chứng cứ đúng quy định Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự; trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đúng quy định tại Điều 208 đến Điều 211 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn, bị đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Nguyễn Thủy T, cho bà Trần Nguyễn Thủy T được ly hôn ông Trần Thái Đ. Về con chung: giao con chung Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018 cho bà Trần Nguyễn Thủy T trực tiếp nuôi dưỡng đến ngày thành niên, ông Trần Thái Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xác định đây là vụ án “Ly hôn” giữa nguyên đơn bà Trần Nguyễn Thủy T và ông Trần Thái Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Nguyễn Thủy T và ông Trần Thái Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, có tổ chức lễ cưới theo phong tục. uá trình ông bà chung sống phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn trình bày do bị đơn không lo làm ăn và có quan hệ ngoại tình nên cuộc sống chung không hòa hợp; theo bị đơn nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng khác biệt về cách sống, nguyên đơn không có thiện chí cùng chung sống. Hội đồng xét xử x t thấy vợ chồng chấm dứt cuộc sống chung từ tháng 10 năm 2021 mỗi người tự lo cuộc sống riêng không còn sự quan tâm và trách nhiệm đối với nhau, ông bà không có thiện chí hòa giải và đều có yêu cầu ly hôn; xác định hôn nhân giữa bà Trần Nguyễn Thủy T và ông Trần Thái Đ mâu thuẫn trầm trọng; mục đích hôn nhân không đạt được; vợ chồng không có khả năng hòa giải đoàn tụ nên cần chấp nhận yêu cầu của bà Trần Nguyễn Thủy T được ly hôn ông Trần Thái Đ là phù hợp và đúng pháp luật.

[3] Về con chung: Trong quá trình chung sống, vợ chồng có 01 con chung tên Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018 nên ông bà đều có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thấy ông bà đều có điều kiện nuôi dưỡng con chung tuy nhiên trong thời gian vợ chồng không cùng chung sống, nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng con chung đảm bảo điều kiện phát triển bình thường và điều kiện hiện nay của nguyên đơn có công việc với thu nhập 10.000.000đồng/tháng, có chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng con; cháu Trần Khả N là cháu gái, còn nhỏ cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Để đảm bảo cho việc ổn định cuộc sống, phát triển bình thường của con chung cần giao bà Trần Nguyễn Thủy T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018 cho đến ngày thành niên là phù hợp, đúng quy định pháp luật.

Bà Trần Nguyễn Thủy T không yêu cầu ông Trần Thái Đ cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Ông bà không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Trần Nguyễn Thủy T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, 71, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, 220, 227, 228, 264, 266, 267 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Cho ly hôn giữa bà Trần Nguyễn Thủy T và ông Trần Thái Đ.

2. Về con chung: Giao bà Trần Nguyễn Thủy T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Trần Khả N, sinh ngày 02/12/2018 cho đến ngày thành niên.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; quyền yêu cầu cấp dưỡng được thực hiện theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình.

3. Về án phí: Buộc bà Trần Nguyễn Thủy T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo phiếu thu số 0007776 ngày 05/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Trọng. Bà Trần Nguyễn Thủy T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2014.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Trọng - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về