Bản án về tranh chấp ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 228/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 11 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Thu H (Vắng mặt), sinh năm 1993.

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Anh Mai Xuân P (Vắng mặt), sinh năm 1994.

Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình làm việc tại Tòa án, chị Vũ Thị Thu H (nguyên đơn) trình bày: Chị Vũ Thị Thu H và anh Mai Xuân P kết hôn với nhau và đăng ký kết kết hôn vào ngày 11/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ. Hôn nhân hoàn toàn tự nguyện. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có 01 con chung: Cháu Mai Hồng N, sinh ngày 07/12/2019, hiện đang ở cùng với chị H. Về tài sản vợ chồng không có tài sản chung, không nợ ai cả. Chị H hiện có chỗ ở ổn định, hợp pháp và có thu nhập ổn định đủ đề nuôi con.

Thời gian đầu mới kết hôn vợ chồng chung sống hạnh P, sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung. Khi xảy ra cãi vã, anh P thường có lời lẽ xúc phạm cũng như không tôn trọng chị H và gia đình chị H, anh P cũng có vài lần đánh chị H. Anh P và chị H đã sống ly thân từ ngày 05/10/2021 đến nay. Bản thân chị H nhận thấy không còn tình cảm yêu thương đối với anh P, mục đích hôn nhân không đạt được, việc ly hôn là cần thiết. Chị H có quan điểm như sau:

Về quan hệ hôn nhân: chị H đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh P.

Về con chung: chị H xin được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Mai Hồng N, sinh ngày 07/12/2019 cho đến khi trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và công nợ: Vợ chồng không có tài sản gì và không nợ ai cả nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 28/3/2022, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil nhận được đơn xin xét xử vắng mặt của chị Vũ Thị Thu H. Chị H giữ nguyên quan điểm như nội dung khởi kiện.

- Đối với anh Mai Xuân P (bị đơn) trình bày: Tại biên bản lấy lời khai, anh P thống nhất với toàn bộ lời khai của chị H về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung. Anh P thừa nhận nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn của vợ chồng dẫn đến việc chị H xin ly hôn là do các vấn đề cá nhân, cũng có xảy ra cãi vã và xô xát dẫn đến có những hành động cũng như lời nói không đáng có, anh chị đã sống ly thân từ ngày 05/10/2021 đến nay. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Anh P không đồng ý ly hôn, trường hợp chị H cương quyết ly hôn thì nguyện vọng của anh P là được nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về phiên hòa giải đoàn tụ, công khai tiếp cận chứng cứ và hòa giải đối với anh Mai Xuân P, mặc dù đã biết được các văn bản tố tụng do Tòa án tống đạt nhưng anh P cố tình vắng mặt không có lý do trong các phiên họp và hòa giải, xét xử tại Tòa án. Do anh P cố tình vắng mặt nên không cung cấp được cho Tòa án chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và phản bác lại đối với yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh P phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà xác định việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm đều tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật; Tòa án đã thụ lý và giải quyết vụ án là đúng với thẩm quyền theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào quy định tại Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị Thu H được ly hôn với anh Mai Xuân P.

Về nuôi con chung: Giao cháu Mai Hồng N, sinh ngày 07/12/2019 cho chị Vũ Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: chị Vũ Thị Thu H (nguyên đơn) phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

1.1. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Vũ Thị Thu H yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với anh Mai Xuân P, đây là tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

1.2. Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn (anh Mai Xuân P) có đăng ký hộ khẩu và hiện đang sinh sống tại thôn A, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

1.3. Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Vũ Thị Thu H (nguyên đơn) vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên chị H đã có đơn xin xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án. Đối với anh Mai Xuân P (bị đơn) đã được Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil triệu tập hợp lệ đến 02 lần (tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa) để tham gia phiên tòa nhưng anh P cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

2. Về nội dung vụ án:

2.1 Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị Thu H và anh Mai Xuân P kết hôn với nhau và đăng ký kết hôn vào ngày 11/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ; việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Trong quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẫn dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, không còn khả năng đoàn tụ. Chị H và anh P cũng đã sống ly thân với nhau từ tháng 10/2021; giữa các bên không còn quan tâm, yêu thương, chăm sóc với nhau nữa. Chị H cũng thừa nhận, chị không còn tình cảm với anh P, không muốn tiếp tục chung sống với anh P và muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống, hôn nhân vợ chồng không đạt được mục đích; mâu thuẫn phát sinh từ lâu nhưng cả hai không tìm ra được giải pháp khắc phục; chị H và anh P đã không còn tin tưởng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, cuộc sống chung không còn hạnh P, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ, hôn nhân của anh chị thật sự không đạt được mục đích. Do đó, Hội đồng xét xử cần căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Vũ Thị Thu H.

2.2 Về nuôi con chung: Chị Vũ Thị Thu H và anh Mai Xuân P đều có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Mai Hồng Ngọc, sinh ngày 07/12/2019 cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt về quyền lợi của các con chưa thành niên.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Hiện cháu Mai Hồng N, sinh ngày 07/12/2019 đang còn nhỏ (dưới 03 tuổi), rất cần sự chăm sóc của mẹ nên cần giao cháu Ngọc cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp.

2.3 Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

2.4 Về tài sản chung và nợ chung: vợ chồng không có tài sản gì chung; trong thời gian chung sống, không vay mượn của ai hay cho ai vay mượn tài sản gì và các đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra để xem xét, giải quyết.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì chị Vũ Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228; Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Thu H về việc ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị Thu H được ly hôn với anh Mai Xuân P (chấm dứt quan hệ hôn nhân).

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Mai Hồng N, sinh ngày 07/12/2019 cho chị Vũ Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu đủ 18 tuổi.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc, giáo dục con chung, người trực tiếp nuôi con không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục các cháu.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110 ; Điều 117 và Điều 119 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

4. Về chia tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Chị Vũ Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000586 ngày 25/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về