Bản án về tranh chấp ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 29 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 222/2020/TLST- HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2020 về việc “ Tranh chấp ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2021 ngày 19 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Cao Thị Trúc L, sinh năm: 1999 (Có mặt) Địa chỉ: ấp A, xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

2/. Bị đơn : Anh Nguyễn Văn D, sinh năm: 1989 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 31/8/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Cao Thị Trúc L trình bày:

Chị Cao Thị Trúc L và anh Nguyễn Văn D chung sống với nhau vào ngày 05 tháng 12 năm 2015, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang số: 49 ngày 03/4/2017. Trước khi chung sống vợ chồng có tìm hiểu nhau trước mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc đến năm 2018, thì phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẩn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp vợ chồng thường xuyên cãi vã, từ đó làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng thêm trầm trọng.

Nay chị L xét thấy tìm cảm chung không thể kéo dài mục đích hôn nhân không đạt được. Vợ chồng ly thân từ năm 2018 cho đến nay.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Cao Trúc M, sinh ngày 04/4/2016, con đã có giấy khai sanh và đang ở với chị L.

- Về tài sản chung cuûa vôï choàng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về phần nợ: Vợ chồng không nợ ai, cũng không ai nợ vợ chồng.

Tại phiên tòa chị L yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị L yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

- Về con chung: Chị L yêu cầu được nuôi con tên Nguyễn Cao Trúc M, sinh ngày 04/4/2016 không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung cuûa vôï choàng: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án, Tòa án tiến hành tống đạt, hợp lệ giấy triệu tập cho anh Nguyễn Văn D tham gia phiên họp kiểm tra việc, giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và triệu tập tham gia phiên tòa, nhưng anh D đều không có mặt và không có lời trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Đây là tranh chấp ly hôn, bị đơn anh Nguyễn Văn D đang cư trú tại ấp T, xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự .

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần hai để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn D.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị Cao Thị Trúc L và anh Nguyễn Văn D được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang số: 49 ngày 03/4/2017 là phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu xin được ly hôn của chị L thấy rằng sau khi kết hôn, chị L và anh D chung sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẩn do anh chị bất đồng quan điểm trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp mâu thuẫn vợ chồng ngày càng thêm trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị L và anh D đã ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian ly thân không ai quan tâm đến ai, không chăm sóc, giúp đỡ nhau điều này chứng tỏa tình trạng hôn nhân không đạt được mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, không thể hiện được tình nghiã vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;…. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau,….”.

Quá trình giải quyết vụ án Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ cho anh D tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải để Tòa án động viên anh chị quay về đoàn tụ tiếp tục cuộc sống hôn nhân và nuôi dạy con chung nhưng anh D điều vắng mặt không có lý do. Đều này chứng tỏa anh D bỏ mặc không quan tâm đến mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị L nữa.

Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “ Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị H.

[4] Về con chung: Chị L xác nhận vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Cao Trúc M, sinh ngày 04/4/2016 hiện cháu M đang ở với chị L. Chị L yêu cầu được nuôi con không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu xin được nuôi con của chị L Hội đồng xét xử xét thấy từ khi ly thân từ năm 2018 cho đến nay cháu Nguyễn Cao Trúc M ở chung với chị Linh, chị L chăm sóc và nuôi dưỡng cháu M tâm sinh lý phát triển bình thường, chị L có thu nhập ổn định một tháng trên 10 triệu đồng từ nhân viên bán hàng, hiện nay cháu M còn nhỏ cần sự chăm sóc của người me.

Khoản 2 Điều 81 luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “ Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Từ những Điều luật quy định Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin được nuôi con của chị Cao Thị Trúc L. Tiếp tục giao cháu Nguyễn Cao Trúc M, sinh ngày 04/4/2016 cho chị L trực tiếp, trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Anh D không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh D không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Cao Thị Trúc L phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm.

[7] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 khoản 4 Điều 147 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào Điều 56,81,82,83 và Điều 84 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Cao Thị Trúc L.

2.Về quan hệ hôn nhân: Chị Cao Thị Trúc L được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

3. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Cao Trúc M, sinh ngày 04/4/2016 cho chị L trực tiếp, trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi. Anh D không cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, đồng thời anh D không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Các đương sự có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

4.Về tài sản chung và nợ chung: không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Cao Thị Trúc L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0008038 ngày 19/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị L đã nộp đủ.

6. Quyền kháng cáo: Chị Cao Thị Trúc L có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về