Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỐT NỐT, TP. CẦN THƠ

BẢN ÁN 06/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 298/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 10 năm 2020, về việc tranh chấp ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:193/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 22 tháng 12 năm 2020 của TAND quận Thốt Nốt, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Mông Thị Y, sinh năm 1977 (Có mặt) Địa chỉ: Khu vực L, phư ng TN, quận TN, thành phố CT.

2. Bị đơn: Ông Lê Hoài NG, sinh năm 1977 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khu vực L, phư ng TN, quận TN, thành phố CT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 16/08/2020 và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Mông Thị Y trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Do quen biết và được gia đình hai bên chấp thuận nên bà và ông Lê Hoài NG tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2001, ông bà có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Sau ngày cưới, ông bà chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông NG không chăm lo cho cuộc sống gia đình, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt. Ông bà ly thân từ tháng 11 năm 2017 cho đến nay, trong thời gian ly thân bà và ông NG không hàn gắn được, mỗi người đều có cuộc sống riêng, không quan tâm đến nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông NG nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung tên Lê Trung N1 (nam), sinh ngày 10/6/2002 và Lê Khoa N2 (nam), sinh ngày 30/01/2014. Hiện nay, cháu Khoa N2 do bà Y nuôi dưỡng nên trư ng hợp vợ chồng ly hôn, bà Y yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Khoa N2, không yêu cầu ông NG cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu Trung N1 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Bà và ông NG tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt Thông báo về việc thụ lý vụ án và triệu tập ông NG tham gia tố tụng theo quy định pháp luật nhưng ông NG đều vắng mặt và cũng không nộp cho Tòa án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn nên Tòa án căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Tại phiên tòa: Bà Y yêu cầu ly hôn với ông Lê Hoài NG và yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu Khoa N2, không yêu cầu ông NG cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trung N1 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Bà và ông NG tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Bà xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ngoài ra, bà Y không yêu cầu gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa hôm nay là đúng theo quy định pháp luật, đồng thời phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Mông Thị Y được ly hôn với ông Lê Hoài NG.

- Về con chung: Giao cháu Khoa N2 cho bà Y tiếp tục nuôi dưỡng, ông NG không phải cấp dưỡng nuôi con. Còn cháu Trung N1 đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết trong cùng vụ án, khi đương sự có yêu cầu sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bị đơn ông Lê Hoài NG đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần hai nên Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt ông NG.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân của bà Mông Thị Y và ông Lê Hoài NG là tự nguyện. Ông, bà tiến tới hôn nhân vào năm 2001, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn và bà Y có đơn khởi kiện ly hôn đối với ông NG nên Tòa án thụ lý xem xét, giải quyết theo thủ tục chung.

[3] Xét yêu cầu ly hôn của bà Y, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình chung sống giữa ông bà phát sinh mâu thuẫn, bà Y cho rằng ông NG không quan tâm lo lắng, chăm sóc cho vợ con dẫn đến tình cảm vợ chồng phai nhạt, không thể tiếp tục sống chung với nhau nữa. Ông bà có thời gian sống ly thân từ tháng 11 năm 2017 cho đến nay, không ai quan tâm đến ai. Tại phiên tòa, bà Y cương quyết yêu cầu ly hôn, riêng ông NG dù đã được Tòa án thông báo về việc yêu cầu ly hôn của bà Y nhưng ông không có ý kiến và cũng như không có biện pháp gì hàn gắn tình cảm gia đình. Từ đó, cho thấy thái độ không quan tâm, bỏ mặc của ông NG. Xét vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các trong việc trong gia đình nhưng nay bà Y xác định không còn tình cảm với ông NG, ông bà có thời gian sống ly thân dài ông NG lại không đưa ra biện pháp hàn gắn gia đình cho thấy hôn nhân của ông bà lâm vào tình trạng trầm trọng, đ i sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử áp dụng quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 cho bà Mông Thị Y được ly hôn với ông Lê Hoài NG.

[4] Về con chung: Ông, bà có 02 con chung tên Lê Trung N1(nam), sinh ngày 10/6/2002 và Lê Khoa N2(nam), sinh ngày 30/01/2014. Xét hiện nay cháu Khoa N2 do bà Y nuôi dưỡng, khi ly hôn bà Y cũng có yêu cầu tiếp tục nuôi con do đó nếu thay đổi người nuôi con có thể ảnh hưởng đến tâm lý của con nên Hội đồng xét xử xét thấy giao cháu Khoa N2 cho bà Y tiếp tục nuôi con là phù hợp. Ngoài ra, xét vấn đề cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của cha mẹ, người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên người được quyền yêu cầu cấp dưỡng không có văn bản yêu cầu ông NG thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định nên Hội đồng xét xử không buộc ông NG phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp. Đối với cháu Trung N1 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết trong cùng vụ án, khi đương sự có yêu cầu sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

[6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Mông Thị Y phải nộp theo quy định pháp luật.

[7] Xét đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có cơ sở chấp nhận.

Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 56, 81,82, 83,84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thư ng vụ Quốc hội khóa 14; quy định về mức thu, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Mông Thị Y và ông Lê Hoài NG.

2. Về con chung: Ông, bà có 02 con chung tên Lê Trung N1 (nam), sinh ngày 10/6/2002 và Lê Khoa N2 (nam), sinh ngày 30/01/2014. Giao cháu Khoa N2 cho bà Y tiếp tục nuôi dưỡng, ông NG không phải cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Trung N1 đã trưởng thành và có khả năng lao động nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung cho ông NG không ai được quyền cản trở. Ông NG, bà Y có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con vì lợi ích của con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết trong cùng vụ án, khi đương sự có yêu cầu sẽ khởi kiện thành vụ án khác.

4. Về án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm: Bà Mông Thị Y phải chịu tiền án phí là 300.000 đồng ( Ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 012457, ngày 12/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Công nhận bà Y đã nộp xong.

Đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 06/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thốt Nốt - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về