Bản án về tranh chấp ly hôn số 05/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH ĐẠI, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 05/2023/HNGĐ-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 12 tháng 01 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 307/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2022 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 307/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 12 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên Tòa số 186/2022/QĐST- HNGĐ ngày 26 tháng 12 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Ngọc D, sinh năm 1976 (Có mặt) Địa chỉ: ấp D, xã T, huyện D, tỉnh B.

- Bị đơn: Anh Trần Xuân H, sinh năm 1971 (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp D, xã T, huyện D, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn đề ngày 04/4/2022, bản tự khai ngày 29/7/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Huỳnh Thị Ngọc D trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh H do mai mối mới quen biết nhau, nhưng sau đó hai bên đã tự nguyện tiến tới hôn nhân trên tinh thần tự nguyện, cưới nhau năm 1993 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vang Quới Tây vào năm 2002. Thời gian đầu sống chung có hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng cự cãi, bất đồng ý kiến nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, đã ly thân từ đầu năm 2022 đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên nay chị yêu cầu ly hôn với anh H.

- Về nuôi con chung: Có 02 con chung tên:

1/ Trần Quốc Đ, sinh ngày 27/10/1994 2/ Trần Hoàng K, sinh ngày 06/3/1998 Hai con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết.

- Về nợ chung: Không có.

- Tại phiên Tòa: Chị D vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, không thay đổi gì.

* Đối với anh Trần Xuân H là bị đơn, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, đã được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng anh đều vắng mặt, mặc dù anh vẫn còn sinh sống tại địa phương, nên không thu thập được lời khai của anh.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh B tham gia phiên Tòa phát biểu ý kiến:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ tuân theo đúng quy định của pháp luật. Riêng bị đơn vắng mặt tại phiên Tòa là không thực hiện theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh H. Về con chung: Đều đã thành niên và có khả năng lao động không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề nghị không xét đến.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết; về nợ chung:

Không có, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1]. Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trần Xuân H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để xét xử, nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt anh là phù hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung:

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị D và anh H cưới nhau vào năm 1993 trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Vang Quới Tây vào năm 2002 theo đúng quy định của pháp luật, nên quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh H được công nhận hợp pháp.

Nay chị D yêu cầu ly hôn, anh H vắng mặt nên không có lời khai. Hội đồng xét xử xét thấy: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, trong đó có biên bản xác minh tại chính quyền địa phương cũng như lời khai của chị D đều xác định được cuộc sống vợ chồng của anh chị đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H có người phụ nữ khác, dẫn đến vợ chồng cự cãi, bất đồng ý kiến nên cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc và đã ly thân từ đầu năm 2022 đến nay.

Hơn nữa, Toà án đã tiến hành mời chị D và anh H để hoà giải, nhằm cho các bên có cơ hội hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh H vẫn vắng mặt không lý do, cho thấy anh H đã không còn quan tâm đến cuộc hôn nhân này.

Qua đó, có cơ sở để Hội đồng xét xử xác định giữa chị D và anh H đã không còn quan tâm, chăm sóc đến cuộc sống của nhau, cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị D là có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Trong quá trình sống chung giữa chị D và anh H có 02 con chung tên:

1/ Trần Quốc Đ, sinh ngày 27/10/1994 2/ Trần Hoàng K, sinh ngày 06/3/1998 Hai con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

[4]. Về tài sản chung: Chị D tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[5]. Về nợ chung: Chị D khai không có, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[6]. Đối với lời trình bày của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ về quan điểm giải quyết vụ án: phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7]. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Huỳnh Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị Ngọc D đối với anh Trần Xuân H.

Cho ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Ngọc D và anh Trần Xuân H.

Quan hệ hôn nhân giữa chị Huỳnh Thị Ngọc D và anh Trần Xuân H chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.

2. Về nuôi con chung:

Chị Huỳnh Thị Ngọc D và anh Trần Xuân H có 02 con chung tên:

1/ Trần Quốc Đ, sinh ngày 27/10/1994 2/ Trần Hoàng K, sinh ngày 06/3/1998 Hai con chung đều đã thành niên và có khả năng lao động, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xét đến.

4. Về nợ chung: Chị D khai không có, nên không xét đến.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

5.1. Chị Huỳnh Thị Ngọc D phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008645 ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh B. Như vậy, chị Huỳnh Thị Ngọc D đã nộp đủ án phí.

5.2. Chị Huỳnh Thị Ngọc D được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0008646 ngày 14 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh B.

Chị Huỳnh Thị Ngọc D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với anh Trần Xuân H vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 05/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về