Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC HÓA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 01 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 10/2021/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2021, về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Phạm V Q, sinh năm 1998; Địa chỉ: xã M, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Bà Võ T T P, sinh năm 2001; Địa chỉ:, xã B, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.

Ông Q có mặt, bà P vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn ông Phạm V Q trình bày: Ông Q và bà P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2017 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 08-5-2019. Trong quá trình chung sống, ông Q và bà P có 01 con chung tên Phạm V T, sinh ngày 09-5-2018. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên sau khoảng 02 năm chung sống thì ông Q và bà P phát sinh mâu thuẩn, bà P đột nhiên bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống, ông Q không biết rõ nguyên nhân, sau đó bà P không đồng ý quay về chung sống cùng ông Q nữa, vợ chồng đã ly thân cho đến nay.

Nay ông Q nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ được nên khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:

Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với bà Võ T T P.

Về con chung: Sau khi bà P bỏ đi, ông Q trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến nay. Khi ly hôn, ông Q yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Ông Q trình bày không có.

- Ý kiến của bị đơn bà Võ T T P: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Võ T T P vắng mặt và không nộp văn bản thể hiện ý kiến cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết:

Ông Phạm V Q và bà Võ T T P tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo quy định tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp vào ngày 08-5-2019 nên quan hệ hôn nhân giữa ông Q và bà P là hợp pháp.

Nguyên đơn ông Phạm V Q khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn bà Võ T T P cư trú tại xã B, huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp ly hôn” và vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn bà Võ T T P: Xét thấy bà Võ T T P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai theo quy định nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn bà Võ T T P.

[3] Về hôn nhân:

Tại phiên tòa, ông Q xác định không còn tình cảm với bà P, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài và cương quyết yêu cầu được ly hôn. Xét thấy bà P đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không nộp văn bản thể hiện ý kiến và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên có đủ căn cứ xác định bà P không quan tâm, không có thiện chí, không mong muốn giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn đoàn tụ với ông Q. Như vậy căn cứ khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự, lời trình bày của ông Q về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng là có căn cứ chấp nhận. Do đó, Hội đồng xét xử nhận thấy có đủ cơ sở xác định mâu thuẫn giữa ông Q và bà P đã trầm trọng kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, không còn khả năng đoàn tụ nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Q là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Ông Q và bà P có 01 con chung tên Phạm V T, sinh ngày 09-5-2018. Tại phiên tòa, ông Q giữ nguyên yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, ông Q là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, do đó để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt của con chung, tránh thay đổi môi trường sống, môi trường học tập nên cần tiếp tục giao con chung cho ông Q nuôi dưỡng. Ngoài ra, bà P đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không nộp văn bản thể hiện ý kiến và yêu cầu tranh chấp nuôi con chung. Do đó căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cho ông Q tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp, đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của con chung.

[5] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Ông Q không yêu cầu bà P cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung: Ông Q không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà P không nộp văn bản thể hiện ý kiến, yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Ông Q trình bày không có, bà P không nộp văn bản thể hiện ý kiến, yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về án phí: Nguyên đơn ông Phạm V Q phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn bà Võ T T P không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm V Q đối với bà Võ T T P.

- Về hôn nhân: Cho ông Phạm V Q ly hôn bà Võ T T P.

- Về con chung: Giao con chung tên Phạm V T, sinh ngày 09-5-2018 cho ông Phạm V Q tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2. Về án phí: Ông Phạm V Q phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000181 ngày 19 tháng 02 năm 2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mộc Hóa, tỉnh Long An.

3. Về quyền kháng cáo: Ông Phạm V Q có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Võ T T P có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Toà án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 04/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Hóa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về