Bản án về tranh chấp ly hôn số 01/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH L

BẢN ÁN 01/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Toa an nhân dân huyện M, tỉnh L xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án thụ lý số 90/2022/TLST- HNGĐ, ngày 10 tháng 12 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2021/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Châu Thị V, sinh năm 1991; Địa chỉ: Ấp 1, xã HB, huyện TN, tỉnh Đ.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Ấp BTr, xã Bình Hòa Tr, huyện M, tỉnh L.

Bà V có mặt; ông H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Yêu cầu khởi kiện của bà Châu Thị V : Bà Châu Thị V yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn H. Về con chung, bà V yêu cầu ông H trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn H1, sinh ngày 23/02/2008, hiện đang sống với ông H. Bà Châu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn D, sinh ngày 18/7/2017, đang sống chung với bà V. Về cấp dưỡng nuôi con chung thì bà V yêu cầu không phải cấp dưỡng nuôi Nguyễn Văn H1; ông H không phải cấp dưỡng Nguyễn Văn D. Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Yêu cầu, đề nghị của ông Nguyễn Văn H : Ông H vắng mặt, không có ý kiến.

Các tài liệu chứng cứ của vụ án: Chứng cứ do bà Châu Thị V cung cấp: Giấy CMND, sổ hộ khẩu của bà V (photo); giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); giấy khai sinh (bản sao), bản tự khai.

Chứng cứ do ông Nguyễn Văn H cung cấp: Không có.

Các tình tiết của vụ án: Bà V trình bày:

Bà V và ông H đăng ký kết hôn tại UBND xã Bình Hòa Tr vào năm 2009.

Sau khi chung sống, vợ chồng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn lớn, tình trạng trầm trọng. Hiện nay, cả hai không còn sống chung nhà, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau và đã ly thân từ năm 2020. Bà V nhận thấy đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Bà V không còn tình cảm với ông H. Do đó, bà V khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông H. Về con chung, có hai con chung Nguyễn Văn H1, sinh ngày 23/02/2008 đang sống với ông H; Nguyễn Văn D, sinh ngày 18/7/2017, đang sống chung với bà V, bà V yêu cầu ông H nuôi dưỡng Hiếu, bà V nuôi dưỡng Duy. Về cấp dưỡng nuôi con chung thì bà V yêu cầu không phải cấp dưỡng nuôi Nguyễn Văn H1; ông H không phải cấp dưỡng Nguyễn Văn D.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bà V yêu cầu không tiến hành hòa giải mà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử luôn do ông H xác định không đến tham gia tố tụng. Bà V đề nghị không công khai bản án trên cổng thông tin điện tử Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Bà Châu Thị V và ông Nguyễn Văn H có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Bình Hòa Tr và có giấy chứng nhận kết hôn nên là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Bà V khởi kiện yêu cầu ly hôn là quan hệ pháp luật được quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toa an nhân dân huyện M theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về việc giải quyết vắng mặt ông Nguyễn Văn H: Ông Nguyễn Văn H vắng mặt không có lý do dù đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần. Do đó, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành giải quyết vụ án vắng mặt ông H.

[3]. Về yêu cầu ly hôn của bà Châu Thị V:

[3.1]. Bà V trình bày về mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân. Ông H vắng mặt, không có ý kiến và không cung cấp chứng cứ phản bác lời trình bày của bà V nên Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và lời trình bày của bà V để giải quyết theo Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3.2]. Theo lời trình bày của bà V, giữa bà V và ông H thường xuyên cãi vã, bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung trong mọi việc, ông H còn sử dụng bạo lực với bà. Cả hai không còn sống chung nhà từ năm 2020, không còn quan tâm đến cuộc sống của nhau, không còn tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; không cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Việc ông H vắng mặt thể hiện ông H không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

[3.3]. Bà V xác định không còn tình cảm với ông H, điều này thể hiện tình nghĩa vợ chồng giữa bà V và ông H không còn vì hôn nhân chỉ có thể tồn tại khi cả hai còn tình cảm với nhau. Đồng thời, thể hiện việc chung sống giữa bà V và ông H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

[3.4]. Từ các phân tích trên, căn cứ quy định tại Điều 5, Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà V đối với ông H.

[4]. Về con chung: Ông H không có ý kiến về yêu cầu trực tiếp nuôi con chung của bà V. Bà Châu Thị V yêu cầu ông Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn H1, sinh ngày 23/02/2008, hiện đang sống với ông H. Bà Châu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn D, sinh ngày 18/7/2017, đang sống chung với bà V. Xét thấy, tình trạng hai con chung đang sống ổn định, việc giữ nguyên tình trạng trực tiếp nuôi dưỡng con chung hiện tại sẽ tốt hơn, giúp cho con chung phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Do đó, căn cứ Điều 69, Điều 70, khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung của bà V.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Xét thấy, ông Nguyễn Văn H đang trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn H1, sinh ngày 23/02/2008, hiện đang sống với ông H. Bà Châu Thị V đang trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn D, sinh ngày 18/7/2017, hiện đang sống với bà V nên yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con chung của bà V là có cơ sở nên chấp nhận.

[6]. Về tài sản chung: Bà Châu Thị V xác định không có tài sản chung, ông H vắng mặt, không có yêu cầu nên Tòa án tạm thời ghi nhận ý kiến bà V về việc không có tài sản chung.

[7]. Về nợ chung: Bà Châu Thị V xác định không có nợ chung, ông H vắng mặt, không có ý kiến, cũng không có ai yêu cầu về nợ chung nên Tòa án tạm thời ghi nhận ý kiến bà V về việc không có nợ chung.

[8]. Về án phí: Bà Châu Thị V phải chịu án phí hôn nhân - gia đình sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 19, Điều 51, Điều 53, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Châu Thị V đối với ông Nguyễn Văn H, cho bà V được ly hôn ông H.

2. Về con chung:

2.1. Căn cứ vào Điều 69, Điều 70, khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, xử: Chấp nhận yêu cầu của bà Châu Thị V về người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ông Nguyễn Văn H trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn H1, sinh ngày 23/02/2008, hiện đang sống với ông H. Bà Châu Thị V trực tiếp nuôi dưỡng Nguyễn Văn D, sinh ngày 18/7/2017, hiện đang sống với bà V. Bà Châu Thị V không phải cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Văn H1. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Văn D.

2.2. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn;

Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; cấp dưỡng nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con được thực hiện theo quy định tại các Điều 69, 70, 71, 72, 81, 82, 83, 84, 85, 110,116 Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung: Căn cứ vào Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 59 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án ghi nhận tạm thời ý kiến của bà Châu Thị V về việc không có tài sản chung.

4. Về nợ chung: Căn cứ vào Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 60 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án ghi nhận tạm thời ý kiến của bà Châu Thị V về việc không có nợ chung.

5. Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội: Buộc bà Châu Thị V phải chịu án phí Hôn nhân - gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, chuyển số tiền 300.000 (ba trăm ngàn) đồng tạm ứng án phí bà V đã nộp theo biên lai số 0010310 ngày 10 tháng 12 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện M sang thi hành án phí, bà V đã nộp đủ án phí.

6. Căn cứ vào các Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự: Bà Châu Thị V có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 01/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:01/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về