Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 55/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 78/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022, về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ánh Đ, sinh năm 1978 (có mặt) Địa chỉ: ấp B, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Anh La Văn T, sinh năm 1980 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp B, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/4/2022, quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Lê Thị Ánh Đ trình bày:

Vào năm 2001, chị xác lập quan hệ vợ chồng với anh La Văn T, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào ngày 25/4/2001. Trong quá trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung tên La Minh K, sinh ngày 24/3/2002 (chết năm 2019) và La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006. Việc xác lập hôn nhân do hai bên tự tìm hiểu, lúc đầu vợ chồng sống chung với nhau hạnh phúc nhưng sau đó thường xuyên cự cải qua lại với nhau. Nguyên nhân do anh T thường ghen tuông vô cớ và chửi bới, đánh đập chị nhiều lần. Chị đã bỏ về nhà cha mẹ ruột vài lần nhưng anh T năn nỉ rước chị về, chị cố gắn nhẫn nhịn tiếp tục sống chung vì các con nhưng anh vẫn không thay đổi tính tình, vẫn tiếp tục bạo hành gia đình. Đến nay tình cảm chị dành cho anh T không còn nữa.

Về tài sản chung: Chị và anh T có diện tích đất 4.340,3m2 loại đất trồng lúa, thuộc thửa đất số 579, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp A, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh do chị đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất 457,3m2 loại đất trồng lúa, thuộc thửa đất số 237, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại ấp B, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh do anh T đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên đất có căn nhà cấp 4 ngang 8m, dài 21m. Diện tích đất 235,5m2 loại đất trồng cây hàng năm khác, thuộc thửa đất số 547, tờ bản đồ số 33, tọa lạc tại khóm X, phường Q, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh do chị và anh T cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Diện tích đất 5.352m2 loại đất trồng lúa, thuộc thửa đất số 401, tờ bản đồ số 5, tọa lạc tại ấp A, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh do chị và anh T cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Một xe mô tô SH Mode, biển kiểm soát 84H1-311.05 do chị đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy. Một chiếc xe tải hiệu Dong Ben, biển kiểm soát 84C-057.92 do anh T đứng tên trong giấy đăng ký xe. Ngoài ra không còn tài sản chung nào khác.

Về nợ chung: Trước đây chị và anh T có nợ Ngân hàng Viettinbank phòng giao dịch huyện Tiểu Cần số tiền 150.000.000 đồng nhưng vào ngày 31/3/2022 chị đã trả hết nợ gốc và lãi cho ngân hàng nên đến nay nợ chung của vợ chồng không còn. Nay chị Lê Thị Ánh Đ yêu cầu:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu ly hôn với anh La Văn T.

- Về con chung: Chị yêu cầu nuôi con chung là cháu La Hồng Trúc, sinh ngày 28/02/2006 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Chị yêu cầu tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai đề ngày 26/4/2022, trong quá trình tố tụng bị đơn anh La Văn T trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của chị Lê Thị Ánh Đ về quan hệ hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung.

Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị Đ trình bày là không đúng. Do chị Đ có quan hệ với người đàn ông khác bị anh bắt gặp đang điện thoại nên anh không kiềm chế được, có chửi bới, đánh chị vài bạc tai nhưng không gây thương tích. Hiện nay anh còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Đ. Về tài sản chung như chị Đ trình bày là đúng và nợ chung anh cũng thống nhất không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về con chung trường hợp Tòa xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đ và con có nguyện vọng sống cùng chị Đ anh đồng ý giao con cho chị Đ nuôi và anh không cấp dưỡng nuôi con, nhưng con anh thì anh vẫn sẽ có trách nhiệm lo.

Những tình tiết các bên thống nhất: Chị Đ và anh T thống nhất về tài sản chung hai bên tự thỏa thuận và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết. Về con chung cháu La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006 có nguyện vọng sống với mẹ nên anh T và chị Đ thống nhất giao con chung cho chị Đ nuôi dưỡng và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con, do chị Đ không yêu cầu.

Những tình tiết các bên không thống nhất: Chị Lê Thị Ánh Đ yêu cầu được ly hôn nhưng anh La Văn T không đồng ý.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 28, 35, 39, 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51 và 56 Điều 81, 82 và 83,84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Ánh Đ về việc cho chị ly hôn với anh La Văn T; giao cháu La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006 cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng, về tài sản chung và nợ chung, đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; buộc chị Lê Thị Ánh Đ phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vắng mặt không có yêu cầu phản tố. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về thủ tục tố tụng:

[1] Nguyên đơn chị Lê Thị Ánh Đ khởi kiện yêu cầu tranh chấp ly hôn và nuôi con. Đồng thời bị đơn anh La Văn T cư trú tại ấp B, xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh nên xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt bị đơn anh La Văn T. Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần 2 nhưng vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Ánh Đ và anh La Văn T xác lập quan hệ vợ chồng, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật; chị Lê Thị Ánh Đ có cung cấp bản chính Giấy chứng nhận kết hôn do xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh cấp vào ngày 25/4/2001, nên hôn nhân giữa chị Lê Thị Ánh Đ với anh La Văn T là hợp pháp.

Sau khi xác lập quan hệ vợ chồng, chị Đ và anh T sống hạnh phúc và có được 02 con chung tên tên La Minh K, sinh ngày 24/3/2002 (chết năm 2019) và La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006; đến năm 2019 thì mới phát sinh mâu thuẫn.

Theo chị Đ trình bày, nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do anh T thường xuyên rượu chè, mỗi lần uống say kiếm chuyện gây gỗ và xô xác với vợ, hay ghen không có căn cứ. Đối với anh T cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không lớn, vợ chồng có lúc gây cãi do không kiềm chế có lúc anh đã đánh chị Đ bằng tay nhưng không gây thương tích.

Xét thấy: Theo quy định tại Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Từ lời khai của chị Đ và anh T xác định thực tế đã phát sinh mâu thuẫn giữa vợ chồng trong lối sống và cách nghĩ, khiến khoảng cách vợ chồng ngày càng xa, những bất đồng cuộc sống dẫn đến cãi vả, không tin tưởng lẫn nhau. Khi say không kiềm chế được anh T đã đánh chị Đ dù không dẫn đến thương tích, chị Đ cũng không có yêu cầu địa phương can thiệp hay hòa giải nhưng khiến tình cảm chị Đ dành cho anh không còn. Mâu thuẫn giữa vợ chồng đến hiện nay đã căng thẳng tới mức dù không được yêu cầu hòa giải nhưng chính quyền địa phương cũng nắm rõ. Theo biên bản xác minh địa phương ngày 15/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần (bút lục 51, 52) thể hiện mâu thuẫn giữa chị Đ và anh T đã kéo dài hơn 05 năm, đặc biệt là có lần anh T đã xảy ra xô xác với anh Lê Tuấn K em ruột của chị Đ phải nhờ đến công an xã N can thiệp, địa phương còn cung cấp thông tin là dù hiện nay chị Đ và anh T vẫn làm công việc chung nhưng buổi tối chị Đ không ở chung nhà với anh T mà về nhà mẹ ruột của chị để ở. Đồng thời chị Đ cũng cung cấp cho Tòa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ án số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần chứng tỏ trước đây giữa anh chị đã nảy sinh mâu thuẫn, hai bên đã tạo cơ hội cho nhau nhưng đến nay vẫn không thể duy trì hôn nhân hạnh phúc. Từ những nhận định trên chứng tỏ hôn nhân giữa chị Đ và anh T đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị Lê Thị Ánh Đ là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung:

Chị Đ và anh T có hai người con chung tên La Minh K, sinh ngày 24/3/2002 (chết năm 2019) và La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006. Cả hai anh chị đều thống nhất cháu Tr có nguyện vọng sống chung với chị Đ thì anh T sẽ giao cháu Trúc cho chị Đ nuôi và chị Đ không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Tại bản tự khai ngày 26/4/2022 của cháu La Hồng Tr (có xác nhận của chị Đ) thể hiện cháu Tr có nguyện vọng sống chung với mẹ. Xét điều kiện kinh tế, chị Đ cũng có tài sản và thu nhập ổn định. Về môi trường sống, từ nhỏ đến nay cháu Tr sống chung với cha mẹ trên địa bàn xã N, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh nên đây là môi trường sống quen thuộc của cháu, nhà mẹ chị Đ và nhà riêng của vợ chồng chị Đ và anh T đều trên địa bàn xã N và cách nhau không xa, việc tới lui thăm nom con của hai bên đều không gặp khó khăn. Đồng thời anh T cũng không tranh chấp quyền nuôi con với chị Đ, mà cũng thống nhất giao con cho chị nuôi. Từ những nhận định trên để đảm bảo cuộc sống ổn định cũng như sự phát triển đầy đủ về mọi mặt cho cháu Trúc, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đ, giao cháu La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006 cho chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng phù hợp với nguyện vọng của cháu và quy định của pháp luật.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị Đ không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Đ và anh T thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án phân chia, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về nợ chung: Chị Đ và anh T thống nhất khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiểu Cần là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng các Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lê Thị Ánh Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho nguyên đơn chị Lê Thị Ánh Đ được ly hôn với bị đơn anh La Văn T.

2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con của chị Lê Thị Ánh Đ. Giao cháu La Hồng Tr, sinh ngày 28/02/2006 cho chị Lê Thị Ánh Đ được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con chung. Anh La Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Lê Thị Ánh Đ không yêu cầu.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Ánh Đ và anh La Văn T thống nhất tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị Lê Thị Ánh Đ và anh La Văn T thống khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Ánh Đ phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm (Án phí hôn nhân và gia đình), được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0008933, ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần; chị Đ đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết công khai để xin xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 55/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:55/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về