Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PL, TỈNH BL

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện PL xét xử công khai vụ án thụ lý số 26/2022/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2022/QĐST - HNGĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Ngọc Kh, sinh năm 1988.Địa chỉ: Ấp Phước Hòa Tiền, thị trấn PL, huyện PL, tỉnh BL

- Bị đơn: Anh Trần Hoài H, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp Phước Hòa Tiền, thị trấn PL, huyện PL, tỉnh BL (Chị Nguyễn Ngọc Kh có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Hoài H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện của nguyên đơn và các lời khai tại Tòa án là chị Nguyễn Ngọc Kh trình bày:

- Về hôn nhân: Tôi và anh Trần Hoài H kết hôn với nhau vào năm 2007, hôn nhân trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đã được UBND thị trấn PL cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 28/02/2007. Trong thời gian gần đây cuộc sống vợ chồng giữa chúng tôi xảy ra nhiều mâu thuẫn, không hiểu nhau, không thông cảm cho nhau. Hiện nay tôi nhận thấy đời sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi ly hôn với anh Trần Hoài H

- Về con chung: 01 người con chung là Trần Tường V, sinh ngày 15/02/2013. Khi ly hôn tôi yêu cầu được nuôi trực tiếp cháu V. Không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con

- Về tài sản chung, nợ chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Hoài H đã được Tòa án nhân dân huyện PL tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh H vẫn vắng mặt, không có lý do và không có ý kiến gửi cho Tòa án.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện PL phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đối với nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng , bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại khoản 15, 16 Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc Kh và anh Trần Hoài H có đăng ký kết hôn theo quy định nên hôn nhân giữa chị Kh, anh H là hợp pháp. Quá trình sống chung vợ chồng không hạnh phúc, đã sống ly thân với nhau. Căn cứ Điều 19, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Kh, cho chị Kh ly hôn với anh H;

+ Về con chung: Giao cháu Trần Tường V, sinh ngày 15/02/2013 cho chị Kh tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Không xem xét đến vấn đề cấp dưỡng nuôi con do chị Kh không có yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết do không có yêu cầu

+ Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc Kh chịu 300.000 đồng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về Thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Ngọc Kh khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Trần Hoài H là tranh chấp về hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện PL, tỉnh BL. Anh Trần Hoài H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, chị Kh có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt chị Kh, anh H là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Ngọc Kh và anh Trần Hoài H sống chung từ năm 2007 và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định. Xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Kh, anh H là hợp pháp, tuy nhiên trong quá trình sống chung chị H và anh H xảy ra mâu thuẫn, đã sống ly thân gần 01 năm nay. Xét thấy, theo quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình, sống chung với nhau nhưng chị H và anh H đã sống ly thân hơn 01 năm nay. Quá trình giải quyết vụ án anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng anh H không đến, cho thấy anh H đã bỏ mặc quan hệ hôn nhân này. Trong khi đó, chị Kh xác định không còn tình cảm gì với anh H và cương quyết ly hôn. Từ đó cho thấy hôn nhân giữa chị Nguyễn Ngọc Kh và anh Trần Hoài H lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nH yêu cầu của chị Kh được ly hôn với anh H.

[3] Về con chung: Có 01 người con chung là Trần Tường V, sinh ngày 15/02/2013. Hiện nay cháu V đang sống với chị Kh. Chị Kh yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu V.

Khoản 2, Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”. Hội đồng xét xử xét thấy, cháu Trần Tường V đã trên 07 tuổi, tại biên bản tiếp xúc với con chưa thành niên thể hiện cháu V có nguyện vọng được sống với chị Kh, mặt khác cháu V là nữ cần sự quan tâm chăm sóc của chị Kh, nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của chị Kh không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Ngọc Kh không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết

[5] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Ngọc Kh không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết

[6] Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm chị Nguyễn Ngọc Kh phải chịu 300.000 đồng, chị Kh đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng được chuyển thu án phí.

Từ những nhận định trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nH.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 56 , khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Ngọc Kh, cho chị Nguyễn Ngọc Kh ly hôn với anh Trần Hoài H

- Về con chung: Giao cháu Trần Tường V, sinh ngày 15/02/2013 cho chị Nguyễn Ngọc Kh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung: Không đặt ra xem xét giải quyết do không có yêu cầu

- Về án phí: Chị Nguyễn Ngọc Kh phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chị Kh đã nộp số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai số 0004978 ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự huyện PL được chuyển thu án phí.

Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

90
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về