TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 126/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 27 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 74/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con ”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24/9/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị M, sinh năm 1989; địa chỉ: số 1, kiệt 239 Đ, phường Th, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; có mặt.
- Bị đơn: Anh Dương Quang Ch, sinh năm 1987; địa chỉ: số 01/36 B, xã H (nay là phường H, thành phố H), tỉnh Thừa Thiên Huế; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Về hôn nhân: Chị Phạm Thị M và anh Dương Quang Ch tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 27/9/2016 tại UBND xã H, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung hạnh phúc được một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn.
Theo chị M, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không tôn trọng nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau và vợ chồng đã sống ly thân khoảng tháng 11 năm 2019 đến nay. Bản thân chị M nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể đoàn tụ chung sống được nữa, không ai quan tâm chăm sóc gì đến nhau nên chị M yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Ch.
Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên là Dương Ngọc Hiền Nh, sinh ngày 08/10/2016; Dương Quang Gia B, sinh ngày 06/9/2018. Hiện nay cả hai cháu đang được chị M nuôi dưỡng. Chị M có nguyện vọng được nuôi 02 con, yêu cầu anh Ch cấp dưỡng cho con mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000 đồng.
Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phía bị đơn, anh Dương Quang Ch: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn không đến nên không có lời khai.
Ngày 11/8/2021, Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà đã tiến hành xác minh tại UBND xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, (nay là phường Hương Vinh, thành phố Huế) được biết: Quá trình chung sống, vợ chồng chị M, anh Ch có xảy ra mâu thuẫn và vợ chồng sống ly thân từ tháng 11 năm 2019 đến nay. Nay chị M yêu cầu ly hôn anh Ch thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà tại phiên tòa:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cho đến trước khi nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân thủ pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị M, cho chị M được ly hôn anh Ch. về con chung: Đề nghị giao 02 cháu Dương Ngọc Hiền Nh, sinh ngày 08/10/2016; Dương Quang Gia B, sinh ngày 06/9/2018 cho chị M được nuôi dưỡng, yêu cầu anh Ch cấp dưỡng cho con mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000 đồng.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có ai yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.
Chị M, anh Ch phải chịu án phí theo luật định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Tại phiên tòa hôm nay bị đơn là anh Dương Quang Ch đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt và anh Ch không có yêu cầu phản tố. Vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung:
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị M và anh Dương Quang Ch tự nguyện kết hôn và đã đăng ký kết hôn vào ngày 27/9/2016 tại UBND xã Hương Vinh, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình hai người không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không tôn trọng nhau nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau dẫn đến vợ chồng đã sống ly thân khoảng tháng 11 năm 2019 đến nay. Tòa án nhận thấy việc mâu thuẫn của chị M, anh Ch đã kéo dài, ngày càng trầm trọng, không thể cùng nhau chung sống được nữa, dẫn đến tình trạng ly thân nhiều năm. Vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa nên mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị M xin ly hôn anh Ch là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 người con chung tên là Dương Ngọc Hiền Nh, sinh ngày 08/10/2016; Dương Quang Gia B, sinh ngày 06/9/2018, hiện nay 02 cháu đang ở với chị M và được chị M chăm sóc chu đáo. Vì vậy việc giao 02 cháu Nhi và Bảo cho chị M tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị M yêu cầu anh Ch cấp dưỡng cho con mỗi tháng mỗi cháu 1.000.000 đồng. Hội đồng xét xử thấy rằng, mức cấp dưỡng như vậy phù hợp với điều kiện kinh tế địa phương. Do đó, cần buộc anh Ch cấp dưỡng cho cháu Dương Ngọc Hiền Nh mỗi tháng 1.000.000 đồng, cấp dưỡng cho cháu Dương Quang Gia B mỗi tháng 1.000.000 đồng kể từ ngày bản án có hiệu lực cho đến khi lần lượt các cháu đủ 18 tuổi.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Phạm Thị M khai không có và không yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.
[6] Về án phí ly hôn: Chị Phạm Thị M phải chịu án phí ly hôn theo quy định. Anh Dương Quang Ch phải chịu án phí cấp dưỡng cho con.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 57, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị M được ly hôn với anh Dương Quang Ch.
2. Về con chung: Giao 02 cháu Dương Ngọc Hiền Nh, sinh ngày 08/10/2016; Dương Quang Gia B, sinh ngày 06/9/2018 cho chị Phạm Thị M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.
Anh Dương Quang Ch có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Dương Ngọc Hiền Nh mỗi tháng 1.000.000 đồng và cấp dưỡng cho cháu Dương Quang Gia B mỗi tháng 1.000.000 đồng, kể từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật cho đến khi lần lượt cháu Nh, cháu B đủ 18 tuổi.
Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có ai yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.
4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Phạm Thị M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu sô 9913 ngày 26/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; chị Phạm Thị M đã nộp đủ.
Anh Dương Quang Ch phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng cho con.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 126/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 126/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về