Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 121/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 121/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 207/2022/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2022 về việc “tranh chấp hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 181/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Võ Thị Kim T, sinh năm 1990; địa chỉ: số A, tổ A, ấp L, xã L, huyện C, tỉnh A; có mặt.

Bị đơn: Ông Trương Thành N, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp L, xã L, huyện C, tỉnh A; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và lời khai cung cấp trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Võ Thị Kim T trình bày, qua tìm hiểu, bà T và ông Trương Thành N kết hôn vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh A vào ngày 22/6/2015. Trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Trương Võ Bảo V, sinh ngày 25/5/2015. Con chung đang được bà T nuôi dưỡng.

Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2020, vợ chồng thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và không còn sống chung từ năm 2020 đến nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông N; yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trương Võ Bảo V, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi dạy con chung; không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện: Giấy chứng nhận kết hôn số 080/2015, quyển số 01/2015, ngày 22/6/2015 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh A cấp cho bà Võ Thị Kim T và ông Trương Thành N (bản chính); Giấy khai sinh số 162/2015, quyển số 01/2015, ngày 23/6/2015 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C cấp cho Trương Võ Bảo V (bản sao).

- Bị đơn ông Trương Thành N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn trình bày ý kiến, yêu cầu như đã cung cấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và xác định không còn tài liệu, chứng cứ nào khác để cung cấp thêm.

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân, bà T và ông N chung sống, có đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông N hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm và không còn sống chung từ thời gian đó cho đến nay.

Do tình cảm vợ chồng không còn nên bà T yêu cầu ly hôn với ông N. Bà T, ông N không tạo điều kiện cho nhau hành gắn hạnh phúc. Ông N không có ý kiến phản hồi yêu cầu ly hôn của bà T. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông N.

Về con chung, đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà T, giao cháu V cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con, do bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung, không yêu cầu giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông N; bà T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Trương Võ Bảo V; ông Trương Thành N không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Võ Thị Kim T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Trương Thành N. Đồng thời, ông N cư trú trên địa bàn huyện C. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Ông Trương Thành N đã được triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông N theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

 [2.1] Về hôn nhân:

Bà T và ông N tự nguyện kết hôn vào năm 2013 và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông N là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Bà T xác định, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã do bất đồng quan điểm sống và không còn sống chung từ năm 2020 cho đến nay.

Xét thấy, xuất phát từ mâu thuẫn trong thời gian chung sống, bà T và ông N thường xuyên cãi vã và không còn sống chung từ năm 2020 cho đến nay. Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bên cạnh đó, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho ông N nhưng ông N không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà T. Cho nên, có căn cứ xác định mâu thuẫn giữa bà T, ông N là trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông N theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Bà T xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng có sinh 01 con chung tên Trương Võ Bảo V, sinh ngày 25/5/2015. Bà T yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy, con chung đang được bà T chăm sóc, nuôi dưỡng, phát triển ổn định. Đồng thời, theo biên bản ghi ý kiến ngày 26/5/2022 do cán bộ Tòa án lập, cháu V có nguyện vọng được sống cùng bà T trong trường hợp bà T, ông N ly hôn. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho con chung, giúp con chung phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu V cho bà T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà T không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi dưỡng cháu V nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kim T.

1. Về hôn nhân: Bà Võ Thị Kim T được ly hôn với ông Trương Thành N.

Giấy chứng nhận kết hôn số 080/2015, quyển số 01/2015, ngày 22/6/2015 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh A cấp cho bà Võ Thị Kim T và ông Trương Thành N không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Bà Võ Thị Kim T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trương Võ Bảo V, sinh ngày 25/5/2015. Ông Trương Thành N không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Võ Thị Kim T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Trương Thành N trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí sơ thẩm:

Bà Võ Thị Kim T phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300 000 ba trăm nghìn đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300 000 ba trăm nghìn đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0010248 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh A cấp ngày 21 tháng 02 năm 2022; bà Võ Thị Kim T đã nộp đủ án phí.

Ông Trương Thành N không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Võ Thị Kim T có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của ông Trương Thành N được tính là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 121/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:121/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về