TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 94/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 30/9/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 415/2021/TLST- HNGĐ, ngày 13 tháng 8 năm 2021 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 58/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 13/9/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 65/2021/QĐST-HNGĐ ngày 22/9/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1996.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh L, sinh năm 1993.
Cùng địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
( Chị Nguyễn Thị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Nguyễn Thanh L vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Nguyễn Thanh L vào ngày 06/5/2014. Trước khi kết hôn anh chị được tự do tìm hiểu, tự nguyện đi đến hôn nhân được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương, vợ chồng chị làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Sau ngày cưới vợ chồng chị về làm ăn và chung sống tại thôn T, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu chung sống có hạnh phúc nhưng đến năm 2020 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh L không chịu khó làm ăn mà thường xuyên chơi bời, rượu chè rồi về đánh chửi chị. Nay, chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.
Về con chung: Anh chị có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu. Chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải anh Nguyễn Thanh L trình bày:
Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống giữa anh và chị T như chị T trình bày là đúng. Về nguyên nhân dẫn đến ly hôn anh L xác định vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn vào năm 2021. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi vã, đánh chửi nhau, cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Khoảng thời gian gần đây trong lúc xảy ra cãi vã, nóng giận anh có đuổi chị T ra khỏi nhà, hiện nay chị T đang ở nhà mẹ đẻ tại tỉnh Vĩnh Phúc. Quan điểm của anh L là tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn với chị T.
Về con chung: Anh L xác định quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Khi ly hôn anh đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cả hai cháu. Anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản, đất đai, nợ chung: Anh L xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/9/2021, bà Đỗ Thị Q (Bà Q là mẹ đẻ của chị Nguyễn Thị T) là người làm chứng trình bày:
Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị T và anh L như anh chị trình bày là đúng. Khoảng năm 2020 giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn do anh L không chịu khó làm ăn mà thường xuyên chơi bời, tụ tập rượu chè sau đó nhiều lần về nhà đánh chửi chị T. Sự việc cũng được thôn T hòa giải nhiều lần nhưng anh L không thay đổi. Bà đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc giao nuôi con chung: Qúa trình chung sống chị T và anh L có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Theo bà việc giao nuôi con chung khi ly hôn nên giao cả hai cháu cho chị T nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế vì bản thân chị T hiện nay đang đi làm công nhân tại tỉnh P có mức thu nhập ổn định. Về thời gian làm việc chị làm theo giờ hành chính, sáng đi, tối về sẽ đảm bảo được thời gian chăm sóc các con. Gia đình bà cũng đã họp thống nhất trao tặng cho chị T thửa đất 100m2 có địa chỉ tại thôn T, xã H, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc để chị T có đất xây dựng nhà ở.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/9/2021, ông Nguyễn Phi H (Ông H là bố đẻ của anh Nguyễn Thanh L) là người làm chứng trình bày:
Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị T và anh L như anh chị trình bày là đúng. Khoảng thời gian gần đây giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn đánh chửi nhau. Nguyên nhân cụ thể ông không nắm rõ. Hiện nay chị T đã về nhà mẹ đẻ ở. Nay, chị T có đơn xin ly hôn với anh L ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về việc giao nuôi con chung: Qúa trình chung sống chị T và anh L có hai con chung là cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Theo ông khi ly hôn nên giao cho chị T và anh L mỗi người nuôi một cháu là phù hợp. Bản thân anh L hiện nay không làm công việc gì, còn chị T đang đi làm công nhân có mức thu nhập ổn định.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T, xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh L. Giao cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị T và anh L đều xác định không có nên không xem xét. Chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh L kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Thanh L đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn T, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.
[3] Về yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị T, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị T và anh L xác định: Chị T và anh L kết hôn vào năm 2014. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn T, xã H, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2020 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân do anh L không chịu khó làm ăn mà thường xuyên chơi bời, tụ tập, rượu chè. Anh L nhiều lần có hành vi đánh chửi chị T, sự việc cũng đã được thôn can thiệp, hòa giải nhưng anh L không thay đổi. Bản thân chị T xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, anh L cũng thừa nhận việc mâu thuẫn giữa hai vợ chồng.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh L đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị Nguyễn Thị T có quan điểm muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Chị không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Thanh L có quan điểm không nhất trí giao con cho chị T nuôi dưỡng, anh đề nghị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cả hai con chung. Qúa trình xác minh tại địa phương thể hiện: Chị T và anh L có 02 con chung là cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016. Tại địa phương anh L là người thường xuyên uống rượu, không có công ăn, việc làm ổn định, không đủ khả năng để nuôi con. Chị T từ trước đến nay vẫn đi làm công nhân có mức thu nhập ổn định đảm bảo điều kiện để chăm sóc cho các con hơn. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị T và anh L đều xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Thanh L không phải nộp án phí.
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án
Xử:
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị T về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Nguyễn Thanh L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Thanh L.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Bảo A, sinh ngày 10/4/2015 và cháu Nguyễn Tuấn K, sinh ngày 09/12/2016 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Thanh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003981 ngày 13 tháng 8 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Nguyễn Thanh L không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 94/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 94/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về