Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 53/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04/8/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 262/2021/TLST- HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2021 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 09/7/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-HNGD ngày 20/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ma Thị H, sinh năm 1998.

- Bị đơn: Anh Hoàng Văn H1, sinh năm 1994.

Cùng địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.

( Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H1 vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai, biên bản hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Ma Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Hoàng Văn H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 02/02/2017 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại thôn N, xã C, huyện Sơn Dương. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2020 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H1.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Nhật M, sinh ngày 09/02/2017. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu M, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.

Tại biên bản tự khai ngày 12/4/2021, biên bản hòa giải ngày 22/4/2021; biên bản hòa giải ngày 20/5/2021 anh Hoàng Văn H1 trình bày:

Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống giữa anh và chị H như chị H trình bày là đúng. Về nguyên nhân dẫn đến ly hôn anh H1 xác định vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn vào năm 2021. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên cãi chửi nhau, trong lúc nóng giận anh cũng có đánh chị H. Cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Hiện nay vợ chồng anh chị cũng đã sống ly thân. Quan điểm của anh H1 là tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh không nhất trí ly hôn với chị H.

Về con chung: Anh H1 xác định quá trình chung sống vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Hoàng Nhật M, sinh ngày 09/02/2017. Khi ly hôn anh nhất trí giao cháu M cho chị H nuôi dưỡng, giáo dục.

Về tài sản, đất đai, nợ chung: Anh H1 xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị H, xử cho chị Ma Thị H được ly hôn với anh Hoàng Văn H1. Giao cháu Hoàng Nhật M, sinh ngày 09/02/2017 cho chị Ma Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn H có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị H và anh H1 đều xác định không có nên không xem xét.

Chị Ma Thị H phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Ma Thị H và anh Hoàng Văn H1 kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Ma Thị H và anh Hoàng Văn H1 đều đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang sinh sống tại thôn N, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.

[3] Chị Ma Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Hoàng Văn H1 được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Ma Thị H, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị H và anh H1 xác định: Chị H và anh H1 kết hôn vào năm 2017. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn N, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đến năm 2020 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng anh chị cũng đã sống ly thân không còn đi lại, quan tâm, chăm sóc đến nhau. Bản thân chị H xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được. Quá trình giải quyết vụ án, anh H1 cũng thừa nhận việc mâu thuẫn giữa hai vợ chồng.

Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H1 đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị H là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về việc giao nuôi con chung khi ly hôn, HĐXX nhận định: Qúa trình giải quyết ly hôn chị Ma Thị H có quan điểm muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung, chị không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Hoàng Văn H1 nhất trí giao con cho chị H nuôi dưỡng. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 09/02/2017 cho chị Ma Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn H1 không phải cấp dưỡng nuôi con, anh H1 có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

[6] Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị H và anh H1 đều xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[7] Về án phí: Chị Ma Thị H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Hoàng Văn H1 không phải nộp án phí.

[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016 của Ủy  ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Ma Thị H về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Hoàng Văn H1.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Ma Thị H được ly hôn với anh Hoàng Văn H1.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Nhật M, sinh ngày 09/02/2017 cho chị Ma Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Hoàng Văn H1 không phải cấp dưỡng nuôi con, anh H1 có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ma Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001667 ngày 12 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Hoàng Văn H1 không phải nộp án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 53/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:53/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về