TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 228/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Trong ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 210/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2021về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 275/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 256/2021/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Diễm K, sinh năm 1986 Địa chỉ: Ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang; địa chỉ liên lạc: Số 147/1F LĐC, phường BTĐ, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thành P, sinh năm 1988 Địa chỉ: Ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết nguyên đơn chị Trần Thị Diễm K trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh P tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình vào ngày 20/6/2008.
Sau khi kết hôn, vợ chồng sống tại nhà cha mẹ chồng tại địa chỉ: Ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang. Vợ chồng chung sống được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn, lý do phát sinh mâu thuẫn vì anh P thường uống rượu và đánh đập vợ con, việc anh P có hành vi bạo lực gia đình thì chị không có trình báo chính quyền địa phương mà chỉ bỏ về nhà cha mẹ ruột ở, khi nào hết giận thì mới trở về nhà của cha mẹ chồng. Trong quá trình sống chung, chị và anh P đã nhiều lần ly thân nhưng do hoàn cảnh khó khăn, lo cho con nên chị mới về sống chung với anh P mà không có gửi đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn. Sau đó, anh P không sửa đổi tính tình nên chị và anh P tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, gia đình hai bên không có hàn gắn tình cảm vợ chồng cho anh chị; bản thân vợ chồng chị cũng không có hàn gắn tình cảm vợ chồng và hiện nay anh P cũng đã có vợ khác.
Nhận thấy mâu thuẫn của vợ chồng đã quá trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh P.
Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thành Hiền H, sinh ngày 29/6/2010 và Nguyễn Thị Diệu H1, sinh ngày 16/4/2006, hiện nay đang sống với anh P và con chung sinh sống, phát triển bình thường. Sau khi ly hôn, chị Trần Thị Diễm K đồng ý để anh Nguyễn Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, chị không cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Nguyễn Thành P vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Tại phiên tòa, Chị Trần Thị Diễm K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
Anh Nguyễn Thành P vắng mặt nên không ghi nhận được ý kiến. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai đoạn sơ thẩm: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã làm đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Chị Trần Thị Diễm K khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Thành P có nơi cư trú tại ấp AT, xã HB, huyện CM, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2] Chị Trần Thị Diễm K có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Nguyễn Thành P đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 02 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Trần Thị Diễm K và anh Nguyễn Thành P.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Đối với quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Diễm K và anh Nguyễn Thành P kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang ngày 20/6/2008 theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ lời trình bày của chị Trần Thị Diễm K, sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được khoảng 01 năm thì phát sinh mâu thuẫn do anh P thường uống rượu và đánh đập vợ con, chị và anh P đã nhiều lần ly thân nhưng do hoàn cảnh khó khăn, lo cho con nên chị mới trở về chung sống với anh P nhưng anh P không sửa đổi tính tình nên chị và anh P tiếp tục phát sinh mâu thuẫn và sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân, gia đình 02 không có hàn gắn tình cảm vợ chồng cho anh chị, anh P không liên lạc thăm nom vợ, thể hiện anh P không có thiện chí níu kéo tình cảm vợ chồng giữa anh, chị. Do đó, có đủ căn cứ để xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, chị K yêu cầu ly hôn anh P phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên có cơ sở chấp nhận.
[2.2] Đối với con chung: Chị K xác định vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thành Hiền H, sinh ngày 29/6/2010 và Nguyễn Thị Diệu H1, sinh ngày 16/4/2006, hiện nay đang sống với anh P. Sau khi ly hôn, chị Trần Thị Diễm K đồng ý để anh Nguyễn Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung để ổn định cuộc sống cho các con. Xét thấy, việc giao con chung cho người chăm sóc, nuôi dưỡng sau khi ly hôn phải đảm bảo điều kiện phát triển tốt nhất cho con cả về vật chất lẫn tinh thần. Cháu Nguyễn Thành Hiền H và Nguyễn Thị Diệu H1 đã sống chung với anh P từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay nên tình cảm của các cháu đã gắn liền với người nuôi dưỡng và các cháu đều có nguyện vọng được sống chung với anh P. Để ổn định cuộc sống cho cháu Nguyễn Thành Hiền H và Nguyễn Thị Diệu H1, cần giao con chung cho anh P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng nên yêu cầu của chị K phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Nguyễn Thành P là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn nên chị Trần Thị Diễm K phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, mặc dù đã được triệu tập theo quy định của pháp luật nhưng anh Nguyễn Thành P đều vắng mặt không có lý do chính đáng nên không ghi nhận được ý kiến, xem như đã tự từ bỏ các quyền đã được pháp luật quy định. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[2.3] Đối với tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét. Trường hợp sau này có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[2.4] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, chị Trần Thị Diễm K phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Điều 28, 35, 39, 147, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Diễm K.
[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Diễm K được ly hôn anh Nguyễn Thành P.
Giấy chứng nhận kết hôn số 106 do Ủy ban nhân dân xã Hòa Bình, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 20/6/2008 không còn giá trị pháp lý.
[2] Về con chung:
Anh Nguyễn Thành P được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành Hiền H, sinh ngày 29/6/2010 và Nguyễn Thị Diệu H1, sinh ngày 16/4/2006, hiện đang sống chung với anh Nguyễn Thành P.
Chị Trần Thị Diễm K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh Nguyễn Thành P cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở chị Trần Thị Diễm K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
Vì lợi ích của con chung, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[3] Về quan hệ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. [4] Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị Diễm K phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo Biên lai số 0006704 ngày 16/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.
[6] Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
[7] Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 228/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 228/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về