Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 16/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI CHÂU, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 16/2023/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, TP Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 185/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2022 về "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 185/2023/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 185/2023/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 2 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Lương T, sinh năm 1981; Địa chỉ: Tổ 27 An Đồn, phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ. Có mặt.

- Bị đơn: Bà Văn Thị Thùy Tr, sinh năm 1988; Địa chỉ: K266/79A/16 đường Hoàng Diệu, phường Bình Hiên, quận C, thành phố Đ. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai và tại phiên tòa hôm nay, Nguyên đơn – ông Nguyễn Lương T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Tôi và bà Văn Thị Thùy Tr xây dựng gia đình với nhau năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ tôi tại địa chỉ Tổ 27 An Đồn, phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn đến năm 2019 thì bà Tr bỏ về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng chúng tôi ly thân từ đó đến nay. Nguyên nhân mâu thuẩn là do kinh tế khó khăn và bất đồng quan điểm. Tôi đã nhiều lần cố gắng hàn gắn vợ chồng nhưng không được, nay tôi xác định tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với bà Tr.

Về quan hệ con chung: Tôi xác định tôi và bà Văn Thị Thùy Tr có 04 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018. Hiện nay, con chung Nguyễn Minh Q và Nguyễn Minh T đang do bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; con chung Nguyễn Minh B và Nguyễn Thị Minh A đang do tôi trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và giao 02 con chung Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

* Tại phiên tòa sơ thẩm, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận C TP Đ phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều đúng pháp luật. Đối với bị đơn, kể từ thời điểm thụ lý đến thời điểm trước khi mở phiên tòa đã không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; tại phiên tòa hôm nay bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định pháp luật.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; xử cho ông Nguyễn Lương T được ly hôn với bà Văn Thị Thùy Tr; giao 02 con chung Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng; giao 02 con chung Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào; về tài sản chung, về nợ chung: không có nên không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” giữa nguyên đơn ông Nguyễn Lương T đối với bị đơn bà Văn Thị Thùy Tr thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận C theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố dụng dân sự.

Bị đơn là bà Văn Thị Thùy Tr đã được Tòa án thực hiện các thủ tục triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng đến lần thứ hai vẫn không có mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để xét xử vắng mặt đương sự nói trên.

[2] Về nội dung vụ án: Theo nguyên đơn trình bày thì ông Nguyễn Lương T và bà Văn Thị Thùy Tr xây dựng gia đình với nhau vào năm 2006, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ. Hôn nhân tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống ở nhà cha mẹ ông T tại địa chỉ Tổ 27 An Đồn, phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẩn và năm 2019 thì mâu thuẩn đỉnh điểm nên bà Tr bỏ về nhà mẹ ruột sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, khi tình hình dịch bệnh phức tạp thì kinh tế khó khăn nên mâu thuẩn ngày càng trầm trọng hơn. Bản thân ông T nhiều lần hàn gắn vợ chồng nhưng không được, ông bà sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Nay ông T xác định tình cảm không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Tr.

[3] Xét yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn thì thấy: Cuộc hôn nhân của ông Nguyễn Lương T và bà Văn Thị Thùy Tr là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Đến nay, ông T cho rằng mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống hôn nhân không để kéo dài và không còn tình cảm với bà Tr nữa nên có quyền làm đơn khởi kiện xin ly hôn theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn, từ khi Toà án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử bà Văn Thị Thùy Tr đều không có mặt theo triệu tập; thông báo của Toà án, không tham gia các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, không tham gia các phiên hoà giải và cũng không tham gia phiên toà. Qua đó, thể hiện bà Tr đã không còn tha thiết với cuộc hôn nhân này, không có thiện chí hàn gắn hạnh phúc gia đình. Kết quả xác minh tại địa phương cho thấy, vợ chồng ông T và bà Tr không còn chung sống với nhau tại địa phương. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng ông bà đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được; có kéo dài cuộc hôn nhân này cũng không đem lại kết quả nên cần áp dụng Điều 56 luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Nguyễn Lương T là hợp tình hợp lý.

[4] Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Lương T trình bày vợ chồng có 04 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018. Ly hôn tôi có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và giao 02 con chung Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào. Hiện nay, con chung Nguyễn Minh Q và Nguyễn Minh T đang do bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; con chung Nguyễn Minh B và Nguyễn Thị Minh A đang do ông T trực tiếp nuôi dưỡng; Tòa án đã tiến hành lấy lời khai của các con chung thì nguyện vọng của các cháu đều phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, ông T bà Tr có 04 người con chung nên cần chia sẽ trách nhiệm cho nhau và để không làm xáo trộn cuộc sống của các con chung nên nguyện vọng được nuôi dưỡng 02 con chung Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và giao 02 con chung Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018 cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng; không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào là phù hợp.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Ông Nguyễn Lương T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[6] Về nợ chung: Ông Nguyễn Lương T trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nguyên đơn phải chịu theo luật định.

[8] Xét các đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp và đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 63, 147, 227, 228, 235, 266 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử :

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn " của ông Nguyễn Lương T đối với bà Văn Thị Thùy Tr.

1. Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Lương T được ly hôn với bà Văn Thị Thùy Tr.

(Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 51, ngày 17 tháng 4 năm 2006 của UBND phường An Hải Bắc, quận S, thành phố Đ) 2. Về quan hệ con chung: Ông Nguyễn Lương T và bà Văn Thị Thùy Tr có 04 con chung tên Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 và Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018.

Giao con chung Nguyễn Minh B, sinh ngày 04/10/2008; Nguyễn Thị Minh A, sinh ngày 13/12/2014 cho ông Nguyễn Lương T trực tiếp nuôi dưỡng; Giao con chung Nguyễn Minh Q, sinh ngày 19/8/2006; Nguyễn Minh T, sinh ngày 2/7/2018 cho bà Văn Thị Thùy Tr trực tiếp nuôi dưỡng. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con cho bên nào.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu thay đổi về mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Lương T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự quận C, TP Đ theo biên lai thu số 0006777 ngày 27/10/2022.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 16/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về