Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 09/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 09/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 13/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 216/2021/TLST-HNGĐ ngày 02/12/2021 “Về việc tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/02/2022, Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 56/TB-TA ngày 07/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thảo G, sinh năm 1996; địa chỉ: xx Quang Trung, Tổ H, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Bá B, sinh năm 1993; địa chỉ: xx Quang Trung, Tổ H, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Trương Thị Thảo G trình bày: Chị G và anh Nguyễn Bá B tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, thị xã A, tỉnh Gia Lai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 112/2016 ngày 09/11/2016. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh B ham chơi, không chăm lo cho gia đình nên cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Hiện nay, tình cảm vợ chồng không còn, không thể kéo dài cuộc sống chung với nhau. Do vậy, chị G yêu cầu Tòa án giải quyết xin được ly hôn với anh B. Về con chung: Chị G và anh B có một con chung là Nguyễn Trương Minh N, sinh ngày 23/3/2017. Chị G đề nghị được nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Chị G và anh B tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Bá B trong quá trình giải quyết vụ án trình bày: Anh B và chị G tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn như chị G đã trình bày. Quá trình chung sống, vợ chồng chưa hiểu tính nhau, chưa thông cảm về công việc và cuộc sống nên có xảy ra mâu thuẫn. Tuy nhiên, mẫu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng phải ly hôn, anh B mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi con. Vì vậy, anh B không đồng ý ly hôn với chị G. Về con chung: Anh B và chị G có một con chung là Nguyễn Trương Minh N, sinh ngày 23/3/2017. Anh B không có ý kiến về việc nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung:

Anh B và chị G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Trương Thị Thảo G yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Bá B, sinh năm 1993; địa chỉ: địa chỉ: xx Quang Trung, Tổ H, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A. Bị đơn anh Nguyễn Bá B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh B.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thảo G và anh Nguyễn Bá B có đủ điều kiện kết hôn và đã đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, chị G và anh B đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến chị G có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh B. Tổ dân phố H và UBND phường A đã có xác nhận về tình trạng mâu thuẫn của chị G và anh B. Anh B không đồng ý ly hôn với chị G và mong muốn vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị G vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với anh B. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng anh B không đến, thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến việc tiếp tục duy trì cuộc sống vợ chồng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã phân tích động viên để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị G vẫn cương quyết ly hôn với anh B. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị G và anh B là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị Thảo G đối với anh Nguyễn Bá B.

[3] Về con chung: Chị G và anh B có một con chung là Nguyễn Trương Minh N, sinh ngày 23/3/2017. Chị G đề nghị được nuôi dưỡng cháu N và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, vì lợi ích của con chung, hiện nay cháu N đang còn nhỏ và đang được chị G trực tiếp nuôi dưỡng. Chị G có khả năng lao động, có nơi cư trú ổn định nên đủ điều kiện để nuôi con. Vì vậy, cần giao cháu Nguyễn Trương Minh N cho chị Trương Thị Thảo G được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Chị G không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị G và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Nguyên đơn chị Trương Thị Thảo G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, bị đơn anh Nguyễn Bá B không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, các Điều 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Thảo G.

- Về hôn nhân: Chị Trương Thị Thảo G được ly hôn với anh Nguyễn Bá B.

- Về nuôi con chung: Giao cho chị Trương Thị Thảo G được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Trương Minh N, sinh ngày 23/3/2017, khi cháu N chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chị G không yêu cầu anh B phải cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về án phí: Chị Trương Thị Thảo G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng, theo biên lai thu tiền số 0011598 ngày 02/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Gia Lai. Chị Trương Thị Thảo G đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Anh Nguyễn Bá B không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3. Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (13/4/2022), các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Thời hạn trên đối với người vắng mặt được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 09/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:09/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã An Khê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về