Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 05/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUANG BÌNH, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 05/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG  

Ngày 27 tháng 08 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2021 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04 ngày 10 tháng 08 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lý Thị L, sinh năm 1994; trú tại: Bản Th, xã X, huyện B, tỉnh Lào Cai;

Bị đơn: Anh Lý Văn Th, sinh năm 1994; trú tại: Thôn Kh, xã N, huyện Q, tỉnh Hà Giang.

1. Về quan hệ hôn nhân 

NHẬN THẤY

Trong đơn khởi kiện ngày 06/05/2021, bản tự khai ngày 06/05/2021 nguyên đơn chị Lý Thị L trình bày: Chị Lý Thị L và anh Lý Văn Th tự nguyện kết hôn với nhau vào ngày 30/07/2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2014 thì anh Th bị Tòa án xử phạt 8 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Sau khi chấp hành xong hình phạt trở về địa phương anhTh không tu chí làm ăn, không chăm lo cho gia đình mà thường xuyên chơi bời cờ bạc, chị Liên đã cố gắng khuyên bảo anh Th nhưng không có kết quả dẫn đến vợ chồng cãi chửi, xúc phạm đến nhau. Nay chị L nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục, vợ chồng sống ly thân từ ngày 6/8/2019 cho đến nay không quan tâm gì đến nhau nữa, vì vậy chị L đề nghị Toà án giải quyết cho chị L được ly hôn với anh Lý Văn Th.

2. Về con chung:

Chị L trình bày: Quá trình chung sống chị L và anh Th có 02 con chung, cháu thứ nhất tên là Lý Nhật H, sinh ngày 30/04/2012; cháu thứ hai tên là Lý Thị Quỳnh Ch, sinh ngày 19/10/2014, hiện nay các cháu còn nhỏ và đang ở với chị L, cháu H có nguyện vọng được ở với mẹ, anh Th không tu chí làm ăn, thường xuyên vắng nhà nên khi ly hôn chị L đề nghị giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cả 2 cháu Lý Nhật H và Lý Thị Quỳnh Ch, không yêu cầu anh Th phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về phần tài sản chung, công nợ chung: Chị L trình bày: Không có. Vì vậy không yêu cầu tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án tiến hành giao thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án cho anh Th nhưng anh Th làm nghề lao động tự do, đi làm thuê ở Hà Nội không có mặt ở nhà nên Tòa án đã tống đạt cho ông Lý Văn H là bố đẻ của anh Th, là người có đủ năng lực hành vi dân sự, cùng cư trú với anh Th. Ông H đều cam kết giao lại tận tay các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Th. Đồng thời Tòa án tiến hành niêm yết các văn bản theo thủ tục tố tụng tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, trụ sở Ủy ban nhân dân xã N, trụ sở thôn Kh, xã N, nơi cư trú của anh Th nhưng từ khi thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa hôm nay anh Th không đến Tòa án để trình bày yêu cầu của mình, cũng không có ý kiến bằng văn bản, tài liệu chứng từ gì cung cấp cho Tòa án. Anh Th đã được triệu tập hợp lệ lần hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

Tại biên bản xác minh ngày 01/06/2021 ông Lý Văn H là bố đẻ của anh Th cho biết: Anh Th có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Kh, xã N và đang chung sống cùng với ông H nhưng hiện nay anh Th đang đi làm thuê ở Hà Nội, còn địa chỉ cụ thể ở chỗ nào thì anh Th không nói cho ông H biết. Anh Th vẫn thường xuyên liên lạc với ông H và gia đình qua điện thoại và thỉnh thoảng có về nhà chơi khi được nghỉ làm và gia đình có công việc. Ông H đã giao thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác của Tòa án cho anh Th theo đúng cam kết nhưng anh Th có ý kiến: Do bận công việc phải đi làm và anh Th không nhất trí ly hôn với chị L nên anh Th không đến Tòa án để trình bày quan điểm của mình về việc chị L có đơn yêu cầu ly hôn. Ngoài ra ông H còn cho biết thêm tình cảm vợ chồng giữa anh Th và chị L đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Th chơi bời, không tu chí làm ăn, thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm lẫn nhau, hai bên gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng không có kết quả. Chị L và anh Th đã sống ly thân nhau, không còn quan tâm đến nhau, chị L đã về nhà mẹ đẻ ở huyện B, tỉnh Lào Cai sinh sống từ tháng 08/2019 cho đến nay.

y ban nhân dân xã N, chi hội phụ nữ thôn Kh và Chủ tịch Hội phụ nữ xã N cho biết trong cuộc sống hàng ngày thấy anh Th chơi bời, không tu chí làm ăn, vợ chồng có cãi chửi xúc phạm đến nhau, vợ chồng sống không còn quan tâm đến nhau, thôn, xã đã tiến hành hòa giải để khuyên bảo chị L và anh Th quay về nhà cùng chung sống với nhau nhưng không có kết quả.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q phát biểu: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ của mình.

Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị L, giao cháu Lý Nhật H, sinh ngày 30/4/2012 và cháu Lý Thị Quỳnh Ch, sinh ngày 19/10/2014 cho chị L nuôi dưỡng. Anh Lý Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con và buộc đương sự phải chịu án phí dân sự ly hôn theo quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Nguyên đơn chị L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với anh Th và việc nuôi con chung của vợ chồng. Do đó Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và bị đơn anh Lý Văn Th cư trú tại thôn Kh, xã N, huyện Q nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Q theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Nguyên đơn chị L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh Th đã được tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 mà vắng mặt tại phiên tòa không có lý do vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa.

[3]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị L và anh Lý Văn Th kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện Q, tỉnh Hà Giang. Như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh Th là hợp pháp theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng tuy anh Th không đến tòa án để trình bày và cũng không có ý kiến bằng văn bản gửi cho tòa án nhưng chị L, chính quyền địa phương và ông H là bố đẻ của anh Th, là người đang cư trú cùng địa chỉ với anh Th cho biết quá trình chung sống chị L và anh Th đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do anh Th thường xuyên chơi bời, không tu chí làm ăn, vợ chồng thường xuyên cãi vã, xúc phạm đến nhau, chị L và anh Th đã sống ly thân từ tháng 8 năm 2019 cho đến nay. Chị L khẳng định tình cảm vợ chồng không còn, sống không còn tôn trọng nhau, không quan tâm đến nhau vì vậy không thể tiếp tục cùng nhau chung sống. Như v ậy đã đủ cơ sở để kết luận quá trình chung sống giữa chị L và anh Th đã phát sinh mâu thuẫn và mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị L đề nghị được ly hôn với anh Th là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Chị L có nguyện vọng được nuôi cả hai con. Xét thấy hiện nay cả hai con đang ở với chị L, cháu Lý Nhật H có nguyện vọng được ở với mẹ. Anh Th đi làm thường xuyên vắng nhà, chơi bời, không tu chí làm ăn, không có điều kiện để trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con hàng ngày. Vì vậy nguyện vọng được nuôi cả hai con sau khi ly hôn của chị L là để đảm bảo mọi mặt về quyền lợi của con chưa thành niên. Đề nghị được nuôi cháu H và cháu Ch của chị L là hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Chị L không có yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con nên anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị L trình bày: Vợ chồng không có tài sản chung, công nợ chung. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét đến.

[6].Về án phí: Chị Lý Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

* Về quan hệ hôn nhân: Chị Lý Thị L ly hôn với anh Lý Văn Th.

* Về con chung: Chị Lý Thị L trực tiếp nuôi dưỡng các cháu Lý Nhật H, sinh ngày 30/4/2012 và cháu Lý Thị Quỳnh Ch, sinh ngày 19/10/2014. Anh Lý Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

* Về án phí: Chị Lý Thị L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 03610 ngày 06/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Hà Giang.

Về quyền yêu cầu thi hành án, nghĩa vụ thi hành án, thời hiệu yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. Ngoài ra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình thi hành án có các quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 7b Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 05/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quang Bình - Hà Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về