TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/01/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA BÀ H VÀ ÔNG H
Ngày 28 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 310/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021, việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 277/2021/QĐST- HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết H, sinh năm 1991. Có mặt. Địa chỉ: + ấp BA, xã BP, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
+ ấp BT, xã BT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
2.Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1983. Vắng mặt. Địa chỉ: ấp BA, xã BP, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
*.Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết H trình bày và có ý kiến như sau:
Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H do tự tìm hiểu tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2012, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai¸ có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 81/2012, quyển số 01/2012 ngày 21/9/2012 tại Ủy ban nhân dân xã BP, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn, bất đồng quan điểm sống, thường hay cãi vả, cả hai nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không thực hiện được và đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên bà Nguyễn Thị Tuyết H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H.
Về con chung: Có 01 (một) con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013. Hiện nay cháu Kđang sống chung bà Nguyễn Thị Tuyết H và ý kiến của cháu K có nguyện vọng sống chung với bà Nguyễn Thị Tuyết H. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Tuyết H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013; không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
*.Bị đơn ông Nguyễn Thanh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Nguyễn Thanh H không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Phú nhận định:
[2] Về tố tụng: Phiên tòa được mở lần thứ hai nhưng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 10/01/2021, với nội dung đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Tuyết H. Ông Nguyễn Thanh H đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Nguyễn Thanh H vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H.
[3] Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H là hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
Xem xét yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết H, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẫn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau. Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, ông Nguyễn Thanh H không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết H. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết H là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Nguyễn Thị Tuyết H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh H.
[4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Nguyễn Đăng K, lời trình bày của bà Nguyễn Thị Tuyết H thì bà và ông Nguyễn Thanh H có con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013. Hiện nay cháu K đang sống chung bà Nguyễn Thị Tuyết H và ý kiến của cháu K có nguyện vọng sống chung với bà Nguyễn Thị Tuyết H. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Tuyết H yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013; không yêu cầu ông Nguyễn Thanh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét thấy, con chung được bà Nguyễn Thị Tuyết H giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu, tạo điều kiện cho cháu được ổn định về tâm sinh lý, chỗ ở, sinh hoạt và học tập; bà Nguyễn Thị Tuyết H yêu cầu tiếp tục nuôi con chung là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Nguyễn Thị Tuyết H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013. Ông Nguyễn Thanh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Tuyết H và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Tuyết H không được cản trở ông Nguyễn Thanh H thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Bà Nguyễn Thị Tuyết H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết H trình bày giữa bà và ông Nguyễn Thanh H về tài sản chung và nợ chung là không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay do không có mặt của ông Nguyễn Thanh Hùng để đối chất làm rõ các mối quan hệ này nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết H là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 và khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H.
Giấy chứng nhận kết hôn số: 81/2012, quyển số: 01/2012 ngày 21/9/2012 tại Ủy ban nhân dân xã BP, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
2.Về nuôi con chung: Có 01 (một) con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013.
2.1.Giao con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013 cho bà Nguyễn Thị Tuyết H được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung chưa thành niên tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/10/2013.
Ông Nguyễn Thanh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Tuyết H và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Tuyết H không được cản trở ông Nguyễn Thanh H thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2.2. Bà Nguyễn Thị Tuyết H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết H trình bày tài sản chung và nợ chung là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.
4.Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0003316 ngày 20 tháng 10 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Bà Nguyễn Thị Tuyết H đã nộp đủ.
5.Về quyền kháng cáo: bà Nguyễn Thị Tuyết H và ông Nguyễn Thanh H vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa bà H và ông H số 25/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 25/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về