Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 54/2018/LĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 12, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 54/2018/LĐ-ST NGÀY 26/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG

Ngày 26 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 12/2018/TLST–LĐ ngày 09 tháng 4 năm 2018 về việc “Tranh chấp lao động về tiền lương” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 264/2018/QĐXX-ST ngày 20 tháng 8 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lưu Thượng V, sinh năm: 1966 Địa chỉ: 168/1/13 Đất Mới, Khu phố 7, phường BTĐ, quận BT, Thành phố H.

(Có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Vận tải Bốc xếp Th L Địa chỉ trụ sở chính: B72 TK, Khu phố 3A, phường ĐHT, Quận 12, Thành phố H.

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Hoàng Thị Vân Ph – Giám đốc, trú tại: Số 9, đường TTN21, Khu phố 4, phường TTN, Quận 12, Thành phố H, là người đại diện theo pháp luật của bị đơn.

(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, các bên đương sự trình bày:

* Về nội dung, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Trong đơn khởi kiện ngày 09 tháng 4 năm 2018 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn trình bày:

Ông Lưu Thượng V và Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Vận tải Bốc xếp Th L (Sau đây gọi tắt là công ty) có thỏa thuận miệng thử việc 01 tuần với mức lương 4.000.000 đồng/tuần, công việc là tài xế lái xe tải vận chuyển hàng cho công ty. Ông V bắt đầu làm việc từ ngày 13/12/2017 với công việc bốc xếp hàng ở cảng Tân Thuận và phụ xe ở tỉnh Bình Dương. Hết tuần thử việc, Ông V vẫn không được công ty phân công công việc lái xe như thỏa thuận. Nay Ông V yêu cầu công ty trả tiền lương 01 tuần thử việc như thỏa thuận là 4.000.000 đồng.

* Về ý kiến, đề nghị của bị đơn:

Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn không cử đại diện đến tòa cũng không gởi văn bản trả lời về nội dung đơn kiện mặc dù đã được Tòa án nhân dân Quận 12 tống đạt thông báo thụ lý và triệu tập đến tòa để giải quyết vụ kiện.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 12 tham gia phiên tòa có ý kiến như sau :

Về thủ tục tố tụng: Thủ tục khởi kiện và thụ lý vụ án thực hiện đúng quy định của pháp luật. Tòa án thụ lý đúng thẩm quyền. Việc tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử tuân theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Ngoài ra còn nhận xét về việc tham gia tố tụng của các đương sự. Viện kiểm sát không có kiến nghị gì về việc khắc phục vi phạm trong tố tụng.

Về nội dung: Công ty không phản đối các yêu cầu của Ông V, xác định giữa Ông V và công ty có quan hệ lao động, đề nghị chấp nhận các yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Đây là "Tranh chấp lao động về tiền lương". Bị đơn có trụ sở tại Quận 12, Thành phố H. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố H.

[2] Về điều kiện khởi kiện:

Tranh chấp nói trên đã thông qua thủ tục hòa giải của hòa giải viên lao động theo "Biên bản Hòa giải tranh chấp lao động" ngày 29/01/2018 của Phòng Lao động - Thương binh và Xã Hội Quận 12. Nguyên đơn đủ điều kiện khởi kiện theo quy định tại khoản 1 Điều 201 của Bộ luật lao động năm 2012, khoản 1 Điều 32 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không rõ lý do, theo quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[4] Về yêu cầu của các đương sự:

Nguyên đơn trình bày về quan hệ lao động, mức lương, công việc và thời gian làm việc. Bị đơn đã được Tòa án thông báo nhưng không phản đối. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử thấy có cơ sở chấp nhận những tình tiết, sự kiện, tài liệu, văn bản do nguyên đơn đưa ra, xác định nguyên đơn đã thử việc 01 tuần với công việc do bị đơn sắp xếp là bốc xếp hàng và phụ xe, bị đơn còn nợ tiền lương thử việc của nguyên đơn là 4.000.000 đồng. Việc bị đơn không sắp xếp công việc cho nguyên đơn đúng như thỏa thuận ban đầu giữa hai bên là lỗi của bị đơn. Điều này không đồng nghĩa với việc bị đơn được quyền không trả lương thử việc cho nguyên đơn. Do đó, theo quy định tại Điều 96 của Bộ luật lao động năm 2012, cần buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền lương nói trên.

[5] Về án phí lao động sơ thẩm:

Bị đơn phải chịu án phí đối với yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, các điểm a và b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 96, khoản 1 Điều 201 của Bộ luật Lao động năm 2012; Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào các điều 2, 6, 7, 9, 30 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008,

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Vận tải Bốc xếp Th L phải trả tiền lương thử việc 01 tuần (Tính từ ngày 13/12/2017) cho Ông Lưu Thượng V, số tiền là 4.000.000 (Bốn triệu) đồng.

Kể từ ngày Ông Lưu Thượng V có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền nói trên, hàng tháng Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Vận tải Bốc xếp Th L còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ Vận tải Bốc xếp Th L phải chịu án phí là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp lao động tiền lương số 54/2018/LĐ-ST

Số hiệu:54/2018/LĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 12 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Lao động
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về