Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 77/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NĂM CĂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 77/2023/DS-ST NGÀY 26/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 41/2023/TLST-DS ngày 28 tháng 3 năm 2023 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2023/QĐXXST-DS ngày 21 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 226/QĐST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2023, giữa:

Nguyên đơn: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (gọi tắt: Ngân hàng Agribank).

Đa chỉ: Số 2, đường L, phường T, Quận B, Thành Phố Hà Nội.

Ni đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Lê Tấn Nh – Trưởng phòng Kế hoạch – Kinh doanh Ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện N (đại diện theo văn bản ủy quyền số 33/QĐ-NHNoNC ngày 21/3/2023); có đơn xin vắng.

Bị đơn: Ông Liêu Văn H, sinh năm 1969.

Ni có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Phạm Thúy Ng, sinh năm 1971 (vợ ông H).

- Cháu Liêu PhạmThúy Ng1, sinh năm 2005 (con ông H).

Ông Háo, bà Ng và cháu Ng1 cùng cư trú: Ấp 1, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, người đại diện theo ủy quyền trình bày:

Ngày 12/5/2022, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và ông Liêu Văn H có ký hợp đồng tín dụng số 7509-LAV-202201151, Ngân hàng cho ông H vay 346.000.000 đồng để mua bán tạp hóa, thời hạn vay 12 tháng kể từ ngày ký hợp đồng; đảm bảo việc vay có ký hợp đồng thế chấp QSD đất số HV-46/14/HĐTC ngày 20/5/2014, thế chấp thửa đất số 33 tờ bản đồ số 15 diện tích 118,5m2 ta lạc tại ấp 1, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau. Do khoản nợ trên thuộc nhóm 4, (thuộc nợ nghi ngờ), vì ông H vay nhiều Ngân hàng không thực hiện thanh toán đúng hạn dẫn đến nợ xấu. Nay yêu cầu Tòa án buộc ông H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên qu an có trách nhiệm thanh toán số tiền gốc lãi tạm tính đến ngày 26/9/2023 là 388.760.860 đồng (Trong đó nợ gốc là 346.000.000 đồng, lãi suất trong hạn và quá hạn là 42.760.860 đồng) và tiếp tục trả lãi suất phát sinh theo mức lãi suất đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày Tòa án ra quyết định hoặc bản án cho đến ngày ông Liêu Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trả hết nợ gốc cho ngân hàng. Trường hợp ông Liêu Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thanh toán thì yêu cầu được xử lý tài sản đã thế chấp theo hợp đồng đã ký kết để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Ngoài ra buộc ông Liêu Văn H và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải chịu án phí và các chi phí liên quan đến quá trình xét xử của Tòa án.

Bị đơn ông Liêu Văn H trình bày tại biên bản xác minh ngày 18/7/2023, ông thừa nhận có vay tiền Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam theo đơn khởi kiện của Ngân hàng, tạm tính đến ngày 01/3/2023 tổng cộng 367.942.088 đồng, trong đó nợ gốc 346.000.000 đồng, ông H hẹn khoảng 10 ngày sẽ thanh toán cho Ngân hàng.

Đng bị đơn bà Phạm Thúy Ng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cháu Liêu PhạmThúy Ng1, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, hết thời hạn pháp luật quy định đương sự không có văn bản trả lời, Tòa án tống đạt thông báo kiểm tra giao nộp chứng cứ và hòa giải 02 lần đương sự vắng mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa:

- Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và bị đơn, người liên quan vắng mặt nên không có ý kiến khác.

- Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đảm bảo đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nên không có kiến nghị.

Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng, buộc ông H và bà Ng liên đới thanh toán gốc lãi cho Ngân hàng là 388.760.860 đồng (lãi tính đến ngày 26/9/2023). Trong đó nợ gốc là 346.000.000 đồng, lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn là 42.760.860 đồng, tiếp tục trả lãi phát sinh đến khi thanh toán hết nợ gốc; về hợp đồng thế chấp, khi thế chấp có đăng ký giao dịch bảo đảm nên hợp đồng có hiệu lực, trường hợp ông H và bà Ng không thanh toán được thì Ngân hàng có quyền làm đơn yêu cầu xử lý tài sản theo quy định của pháp luật. Đối với cháu Ng1 khi vay cháu còn nhỏ và cũng không ký hợp đồng vay nên không buộc liên đới. Án phí và chi phí tố tụng xử theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

Đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, yêu cầu của đương sự phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

Tòa án tống đạt và niêm yết công khai giấy triệu tập, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn và người liên quan hợp lệ 02 lần nhưng đương sự vẫn vắng mặt, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt đối với bị đơn ông Liêu Văn H, có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Phạm Thúy Ng và cháu Liêu PhạmThúy Ng1.

Về nội dung:

[1] Xét quan hệ pháp luật tranh chấp: Ngân hàng khởi kiện ông Liêu Văn H và người có liên quan yêu cầu thanh toán tiền vay theo hợp đồng tín dụng đã ký. Quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu ông Liêu Văn H và người có liên quan có trách nhiệm liên đới thanh toán tiền vay nợ gốc và lãi suất tổng cộng 388.760.860 đồng (lãi tạm tính đến ngày 26/9/2023), trong đó nợ gốc là 346.000.000 đồng, nợ lãi 42.760.860 đồng, tiếp tục trả lãi đến khi trả hết nợ gốc mức lãi suất theo hợp đồng đã ký, thấy rằng:

[2.1] Xét thẩm quyền ký kết hợp đồng: Hợp đồng tín dụng số: 7509-LAV- 202201151 ngày 12/5/2022 được ký kết giữa Ngân hàng Agribank - Chi nhánh huyện N do ông Trịnh Công Kh Phó Giám đốc chi nhánh N đại diện ký với ông Liêu Văn H. Về mặt thẩm quyền ký kết, Ngân hàng Agribank Việt Nam có văn bản ủy quyền thường xuyên cho các chi nhánh trong việc ký kết hợp đồng tín dụng và một số lĩnh vực khác liên quan đến hoạt động kinh doanh nên ông Trịnh Công Kh đại diện chi nhánh huyện N ký kết hợp đồng tín dụng nêu trên là đúng thẩm quyền.

[2.2] Xét hợp đồng tín dụng: Ngày 12/5/2022, ông Liêu Văn H có ký hợp đồng tín dụng số: 7509-LAV-202201151 với Ngân hàng Agribank – Chi nhánh huyện N để vay số tiền 346.000.000 đồng, mục đích vay mua bán tạp hóa và được ông H thừa nhận. Khi giao dịch, hai bên hoàn toàn tự nguyện và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật cả về nội dung và hình thức hợp đồng. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 93 của Bộ luật tố tụng dân sự, đây là những tình tiết sự kiện không phải chứng minh, do đó Hội đồng xét xử công nhận hợp đồng tín dụng giữa các đương sự là có thật và hợp pháp.

[2.3] Xét yêu cầu trả nợ gốc: Quá trình thực hiện hợp đồng, bên vay là ông Liêu Văn H không thực hiện đúng cam kết của hợp đồng, không thanh toán toàn bộ dư nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Mặt khác, theo Trung tâm thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì khoản nợ vay của ông H xếp hạng “Xấu”.

Từ lý do trên, Ngân hàng khởi kiện buộc buộc đòi toan bộ nợ gốc là có cơ sở được chấp nhận.

[2.4] Xét yêu cầu về nợ lãi:

Ngân hàng yêu cầu thanh toán lãi trong hạn và nợ lãi quá hạn theo hợp đồng đã ký, thấy rằng:

Đi với lãi suất thời điểm Ngân hàng cho vay 7.90%/năm là thấp hơn lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự, theo quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng thì: Tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật.

Từ khi vay đến nay, bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả lãi cho Ngân hàng là vi phạm thỏa thuận của đôi bên, do đó yêu cầu trả lãi của Ngân hàng được chấp nhận toàn bộ, lãi tính đến ngày 26/9/2023, lãi suất trong hạn và quá hạn là 42.760.860 đồng.

[3] Xét hợp đồng thế chấp tài sản: Đảm bảo việc vay ông Liêu Văn H và bà Phạm Thúy Ng có ký hợp đồng thế chấp giấy chứng nhận QSD đất và tài sản gắn liền với đất số Y832177, số vào sổ cấp: 04462 ngày 27/11/2003, tọa lạc tại ấp 1, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau thuộc thửa đất 33 tờ bản đồ số 15 diện tích 118,50m2 y ban nhân dân huyện N (Ngọc H cũ) cấp cho hộ Liêu Văn H. Thấy rằng, hợp đồng thế chấp có Ủy ban nhân dân xã H ký chứng thực, đồng thời có đến Văn phòng đăng ký đất đai của huyện đăng ký thế chấp nên hợp đồng hợp pháp và có hiệu lực pháp luật.

Căn cứ vào hợp đồng thế chấp được thể hiện ký vào năm 2014, để vay khoản tiền trên. Nhưng nội dung hợp đồng cũng thể hiện đảm bảo cho các khoản vay nhưng nợ gốc không vượt quá 346.000.000 đồng. Tại hợp đồng vay ngày 12/5/2022, số: 7509-LAV-202201151 cũng thể hiện khoản vay nợ gốc 346.000.000 đồng, phù hợp với số tiền nợ vay ban đầu, nên căn cứ vào thỏa thuận các bên xác định khoản vay trên là có tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và đã được ký thế chấp năm 2014.

[4] Xét trách nhiệm liên đới: Đối với hợp đồng vay, bà Ng không trực tiếp ký vay tiền tại Ngân hàng, nhưng bà Ng biết việc ông H vay để phục vụ cho việc kinh doanh trong gia đình nên đã dùng tài sản chung vợ chồng để ký giao dịch bảo đảm cho khoản vay trên; theo quy định tại Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định trách nhiệm liên đới của vợ, chồng; Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng đối với giao dịch do một bên thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Vì vậy, buộc bà Ng có trách nhiệm liên đới cùng ông H thanh toán tiền vay gốc và lãi cho Ngân hàng là phù hợp.

Từ những nhận định trên, có cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam. Buộc ông Liêu Văn H và bà Phạm Thúy Ng có trách nhiệm liên đới thanh toán gốc, lãi cho Ngân hàng 388.760.860 đồng. Trong đó nợ gốc là 346.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn và lãi quá hạn 42.760.860 đồng (lãi tạm tình đến 26/9/2023).

Kể từ ngày 27/9/2023 ông H và bà Ng chưa thanh toán tiền thì ông bà tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất Ngân hàng cho vay.

Trường hợp, ông H và bà Ng không thanh toán được thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản là QSD đất của ông H và bà Ng để đảm bảo thu hồi nợ cho Ngân hàng.

[4] Ngân hàng yêu cầu cháu Liêu Phạm Thúy Ng1 cùng có nghĩa vụ liên đới thanh toán tiền; thấy rằng: Thời điểm Ủy ban nhân dân huyện cấp giấy chứng nhận QSD đất cho hộ ông Liêu Văn H thì cháu Ng1 còn nhỏ (02 tuổi), đến khi vay tiền thì cháu cũng là người chưa thành niên, nên việc vay không có liên quan đến cháu, Tòa án không buộc cháu có trách nhiệm liên đới là phù hợp.

[5] Về án phí:

- Yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận, ông H và bà Ng phải chịu án phí có giá ngạch là 388.760.860 đ x 5% = 19.438.000 đồng.

- Ngân hàng Agribank không phải chịu án phí, có nộp tạm ứng án phí được nhận lại toàn bộ.

Ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở được chấp nhận toàn bộ.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 299, Điều 319, Điều 466 Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 91; Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, khởi kiện đối với ông Liêu Văn H và bà Phạm Thúy Ng về việc thanh toán tiền vay gốc và lãi.

Buộc ông Liêu Văn H và bà Phạm Thúy Ng có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nợ gốc, lãi suất trong hạn và lãi suất quá hạn là 388.760.860 đồng. Trong đó nợ gốc là 346.000.000 đồng, nợ lãi 42.760.860 đồng (lãi tạm tính đến 26/9/2023).

Không chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc buộc cháu Liêu Phạm Thúy Ng1 con của ông H, bà Ng cùng liên đới trả nợ Ngân hàng.

Kể từ ngày 27/9/2023, ông H và bà Ng chưa thanh toán tiền thì ông bà còn phải tiếp tục chịu khoản lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất Ngân hàng cho vay.

Trường hợp, ông H và bà Ng không thanh toán được thì Ngân hàng có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản là QSD đất số Y832177, số vào sổ 04462 QSDĐ ngày 27/11//2003, tọa lạc tại ấp 1, xã H, huyện N, tỉnh Cà Mau thuộc thửa đất 33 tờ bản đồ số 15 diện tích 118,5 m2 mang tên của ông Liêu Văn H để đảm bảo thu hồi nợ cho Ngân hàng.

- Về án phí:

+ ông H và bà Ng phải chịu tiền án phí dân sự có giá ngạch đối với yêu cầu của Ngân hàng được chấp nhận, số tiền án phí là 19.438.000 đồng.

+ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam không phải chịu án phí, có nộp tạm ứng án phí 9.199.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0016048 ngày 28/3/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Năm Căn được nhận lại toàn bộ.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.

Án xử sơ thẩm, các đương sự vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 77/2023/DS-ST

Số hiệu:77/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Năm Căn - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về