Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 61/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 61/2022/DS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 118/2022/TLST - DS ngày 28 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2022/QĐXXST - DS ngày 20 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1954 (có mặt) Trú tại: Số 52/4 ấp TP, xã HP, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long

2. Bị đơn: Chị Võ Thị Ngọc D, sinh năm 1984 (vắng mặt) Trú tại: ấp TP, xã HP, huyện LH, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện ngày 28/4/2022, đơn thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện ngày 20/6/2022 và tại phiên tòa bà Nguyễn Thị H trình bày:

Vào ngày 31/12/2017 bà H có cho chị Võ Thị Ngọc D vay số tiền 54.000.000đồng để trả nợ ngân hàng, chị D có viết biên nhận, hai bên thỏa thuận là 3 ngày trả nên không tính lãi suất, từ ngày vay đến nay chị D không có trả vốn và lãi.

Ngày 30/5/2018 âm lịch (nhằm ngày 12/7/2018 dương lịch), chị D vay tiếp số tiền là 90.000.000đồng để trị bệnh, chị D hứa mỗi tháng trả 25.000.000đồng, cho vay không có lãi đến nay chị D vẫn chưa không trả tiền vốn như đã hứa.

Tổng cộng chị D còn nợ của bà H số tiền vay gốc của là 144.000.000đồng.

Hiện tại chị D cũng khó khăn, nên bà H chỉ yêu cầu chị Võ Thị Ngọc D trả số tiền vay gốc là 100.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi.

- Bị đơn: Chị Võ Thị Ngọc D không có văn bản nêu ý kiến gì đối với các yêu cầu của bà Nguyễn Thị H.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật.

2. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 234 Bộ luật TTDS. Bị đơn không thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại Điều 70, 72, 234 Bộ luật TTDS

3. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Vào ngày 31/12/2017 bà Nguyễn Thị H và chị Võ Thị Ngọc D có làm biên nhận mượn nợ số tiền 54.000.000đồng và biên nhận mượn nợ số tiền 90.000.000đồng vào ngày (30/5/2018 âm lịch) nhằm ngày 12/7/2018 thể hiện chữ ký và tên Võ Thị Ngọc D. Tổng số tiền gốc là 144.000.000đồng, lãi là 57.469.000đồng, tổng cộng gốc và lãi là 201.469.000đồng. Ngày 20/6/2022 bà H thay đổi yêu cầu chị D trả cho bà H số tiền vay là 100.000.000đồng, không yêu cầu tính lãi. Yêu cầu thay đổi không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu nên chấp nhận. Việc vay mượn tiền giữa bà H và chị D có làm biên nhận, chị D khong tham gia hòa giải, không tham gia phiên tòa, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Do đó, có căn cứ buộc chị D trả cho bà H số tiền 100.000.000đồng.

Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử::

Căn cứ Điều 147, 227, 244 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 463, 466 Bộ Luật Dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTV Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H buộc chị Võ Thị Ngọc D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền 100.000.000đồng.

- Về án phí: Chị Võ Thị Ngọc D chịu 5.000.000đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án dân sự về việc tranh chấp Hợp đồng vay tài sản. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã Hòa Phú, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại các Điều 26, 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về tố tụng: Bị đơn chị Võ Thị Ngọc D đã được triệu tập tham gia phiên tòa đến lần 2, nhưng vẫn vắng mặt không lý do, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị D theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về nội dung vụ án:

Xét, yêu cầu của bà Nguyễn Thị H yêu cầu chị Võ Thị Ngọc D trả cho bà H tiền vay gốc là 100.000.000đ và không yêu cầu trả lãi là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ bà H cung cấp chứng cứ là biên nhận tiền ngày 31/12/2017 chị D có nhận 54.000.000đ, ngày 12/7/2018 chị D có nhận 90.000.000đ, tất cả có chữ ký của chị Võ Thị Ngọc D, từ đó có cơ sở chứng minh có sự việc chị D vay tiền của bà H số tiền 144.000.000đ nhưng bà H chỉ yêu cầu chị D trả số tiền gốc là 100.000.000đ, đây là sự tự nguyện của bà H đồng thời có lợi cho chị D. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho chị D về các yêu cầu của bà H nhưng chị D không có văn bản phản đối gì đối với yêu cầu khởi kiện của bà H cũng không tham gia hòa giải, nên Hội đồng xét xử buộc chị Võ Thị Ngọc D có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền vay gốc là 100.000.000đ.

[4] Về án phí: Buộc chị D phải chịu 5.000.000đ tiền án phí DSST.

[5] Xét, đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Hồ là có cơ sở chấp nhận

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, 227, 244 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, Điều 466 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H Buộc chị Võ Thị Ngọc D có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị H số tiền vay gốc là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Buộc chị Võ Thị Ngọc D phải chịu 5.000.000đ (Năm triệu đồng) tiền án phí Dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Võ Thị Ngọc D được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 61/2022/DS-ST

Số hiệu:61/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về