Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 55/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 55/2022/DS-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021 tại Tòa án nhân dân quận Tân Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 170/2021/TLST-DS ngày 05 tháng 11 năm 2021 về: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S, Địa chỉ: Lầu 8, 266-268 đường N, Phường V, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Ngọc M, sinh năm 1991; địa chỉ: Lầu 8, 266-268 đường N, Phường V, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh – Là người đại diện theo ủy quyền (Theo Giấy ủy quyền số 588/2021/UQ-TTT ngày 24/5/2021).

(Ông Minh có mặt).

Bị đơn: Bà Trần Thị L – sinh năm 1965; Địa chỉ: 273 đường T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

(Bà L vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 24/05/2021 và trong quá trình tố tụng, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Ngày 11/09/2014, bà Trần Thị L có ký với Ngân hàng Thương mại Cổ phần S (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) Hợp đồng sử dụng Thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Căn cứ thu nhập của bà L, Ngân hàng đã đồng ý cấp 02 thẻ tín dụng (Gồm thẻ Visa Ladies First 486265- 6975, thẻ Family Local Credit 970403-3592) với hạn mức sử dụng chung là 10.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà L đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 10.000.000 đồng (trong đó thẻ Visa Ladies First 486262-6975 là 5.000.000 đồng, thẻ Family Local Credit 970403-3592 là 5.000.000 đồng). Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà L vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 06/3/2015 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Vì vậy, Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà Trần Thị L phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 05/5/2021 là 41.852.969 đồng, trong đó nợ gốc là 11.559.131 đồng và lãi quá hạn là 30.293.838 đồng và buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 06/5/2021 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất theo quy định tại Hợp đồng.

Bị đơn, bà Trần Thị L mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập để cung cấp lời khai; thông báo và giấy triệu tập tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nhưng đều vắng mặt không có lý do và cũng không có bất cứ ý kiến gì về vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Ngọc M trình bày: Nguyên đơn yêu cầu bà Trần Thị L phải trả ngay cho Ngân hàng tổng số tiền tạm tính đến ngày 30/3/2022 là 46.276.703 đồng, (bao gồm gốc là 11.559.131 đồng và lãi quá hạn là 34.717.572 đồng) và buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 31/3/2022 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất theo quy định tại Hợp đồng.

Bị đơn, bà Trần Thị L vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân quận Tân Bình phát biểu:

- Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử là đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách của những người tham gia tố tụng, quan hệ pháp luật tranh chấp. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

- Về nội dung: Xét thấy các chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ, yêu cầu của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình bày và tranh luận của các bên đương sự tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn - Ngân hàng khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản đối với bị đơn – bà Trần Thị L. Theo kết quả xác minh tình trạng cư trú thì bà L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại 273 Tân Tiến, Phường 8, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đã đi khỏi địa phương, không rõ địa chỉ nơi đến. Tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/8/2014, bà L cung cấp địa chỉ là 273 đường T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, địa chỉ 273 đường T, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh là địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của bà L. Theo quy định tại khoan 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Tân Bình.

Bị đơn – Bà Trần Thị L mặc dù đã được Tòa án triệp tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về pháp luật nội dung:

Xét giao dịch dân sự giữa các bên được thực hiện trước khi Bộ luật dân sự năm 2015 có hiệu lực nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 nên áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005 để xem xét giải quyết.

Căn cứ vào Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 28/8/2014 và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng; lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thì có đủ cơ sở xác định bà Trần Thị L có sử dụng thẻ tín dụng để thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 10.000.000 đồng.

Theo thỏa thuận của các bên trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 11/09/2014 và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng, lãi được tính trên từng giao dịch phát sinh theo từng ngày và theo lãi suất Ngân hàng áp dụng vào từng thời điểm khác nhau và bà L còn phải chịu các khoản phí theo quy định. Từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà L đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 1.000.000 đồng (chi tiết các lần thanh toán trong bảng sao kê tóm tắt). Tổng số tiền trên được thanh toán áp dụng theo điều 20 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng. Do bà L vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 06/3/2015 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Ngân hàng đã chuyển toàn bộ dư nợ tại thời điểm này là 11.559.131 đồng làm nợ gốc, áp dụng lãi suất nợ quá hạn (là 150% của lãi suất được công bố và áp dụng tại thời điểm hiện tại).

Tính đến ngày 30/3/2022 số tiền bà L còn nợ Ngân hàng là 46.276.703 đồng (gồm nợ gốc là 11.559.131 đồng, lãi quá hạn là 34.717.572 đồng). Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu bà L phải có trách nhiệm thanh toán số tiền như trên là có căn cứ chấp nhận theo qui định tại Khoản 2 Điều 91 và Khoản 2 Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng, ngoài ra bà L còn phải trả lãi phát sinh từ ngày 31/3/2022 cho đến khi trả dứt nợ vay theo lãi suất quy định trong hợp đồng.

Về thời hạn thanh toán: Bị đơn vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã lâu nên nguyên đơn yêu cầu bị đơn thanh toán một lần số tiền ngay sau khi bản án cua Toa an có hiệu lực pháp luật trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Phương thức thanh toán: Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn là bà Trần Thị L vẫn vắng mặt không có lý do, không đưa ra bất cứ một phản hồi nào hoặc chứng cứ nào để chứng minh cho quan điểm của mình. Vì vậy, bà L phải chịu hậu quả pháp lý đối với việc vắng mặt của mình.

Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bà Trần Thị L có trách nhiệm trả số tiền 46.276.703 đồng cho Ngân hàng nên phải chịu án phí theo qui định của pháp luật là 2.313.835 đồng.

Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho Ngân hàng đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015;

- Căn cứ các Điều 471, 474 Bộ luật dân sự năm 2005;

- Căn cứ khoản 2 Điều 91, khoản 2 Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng;

- Căn cứ Luật phí và lệ phí; Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;

- Căn cứ Điều 26 Luật Thi hành án dân sự, Tuyên xử:

1/ Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, Ngân hàng Thương mại Cổ phần S:

Buộc bà Trần Thị L có trách nhiệm trả cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền 46.276.703 (Bốn mươi sáu triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn bảy trăm lẻ ba) đồng, trong đó bao gồm nợ gốc là 11.559.131 đồng, lãi quá hạn là 34.717.572 đồng.

Phương thức và thời hạn trả: Trả một lần toàn bộ số tiền trên ngay sau khi bản án cua Toa an có hiệu lực pháp luật và thực hiện tại Chi cục Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Bà Trần Thị L còn phải trả lãi phát sinh từ ngày 31/3/2022 cho đến khi trả dứt nợ vay theo mức lãi suất các bên thỏa thuận trong Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 11/9/2014 và bản Điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.

2/ Về án phí: Án phí dân sự sơ thẩm là 2.313.835 đồng (Hai triệu ba trăm mười ba nghìn tám trăm ba mươi lăm) đồng do bà Trần Thị L phải chịu Hoàn lại cho Ngân hàng Thương mại Cổ phần S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.046.325 (Một triệu không trăm bốn mươi sáu ngàn ba trăm hai mươi lăm) đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0030427 ngày 27/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

3/ Về quyền kháng cáo: Ngân hàng Thương mại Cổ phần S được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Trần Thị L vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 55/2022/DS-ST

Số hiệu:55/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Tân Bình - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về