Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 53/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 53/2021/DS-ST NGÀY 04/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 305/2020/TLST- DS ngày 27 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2021/QĐXXST- DS ngày 14 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự.

1/Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1984; (có mặt) Địa chỉ: Số 02 khu phố A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

2/ Bị đơn: Anh Lê Tuấn K, sinh năm 1990; (vắng mặt) Địa chỉ: Số 01 khu phố A, phường B, thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong đơn khởi kiện ngày 24/11/2020, tại lời khai trong các biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị H trình bày: Do bạn bè quen biết với nhau, chị H cho anh Lê Tuấn K vay không lãi nhiều lần tiền cụ thể như sau:

- Vào ngày 01/9/2020 chị H có cho anh Lê Tuấn K vay không lãi với số tiền là 20.000.000 đồng, thời hạn vay là 04 tháng tình từ ngày 01/09/2020 sẽ trả lại tiền vay.

- Vào ngày 09/10/2020 chị H có cho anh Lê Tuấn K vay không lãi với số tiền là 25.000.000 đồng, thời hạn vay đến ngày 23/11/2020 sẽ trả lại tiền vay.

- Vào ngày 22/10/2020 chị H có cho anh Lê Tuấn K vay không lãi với số tiền là 40.000.000 đồng, thời hạn vay 03 tháng đến ngày 20/11/2021 sẽ trả lại tiền vay.

Đối với 03 lần vay tiền trên, khi vay tiền anh K có viết biên nhận và ký tên ghi họ tên vào biên nhận.

- Vào ngày 15/11/2020 chị H có cho anh Lê Tuấn K vay không lãi với số tiền là 10.000.000 đồng, thời hạn vay đến ngày 19/11/2020 sẽ trả lại tiền vay. Đối với lần vay tiền này thì chị H đưa tiền cho anh K nhưng phía anh K không có viết biên nhận.

Sau khi vay tiền đến hạn trả theo thỏa thuận nhưng anh K không trả. Phía chị H có đòi nhiều lần phía anh K hẹn trả mà không trả. Nay chị H yêu cầu anh K phải có nghĩa vụ trả cho chị H số tiền vốn vay là 85.000.000 đồng của 03 biên nhận do anh K viết và ký tên ghi họ tên vào biên nhận, không yêu cầu tính lãi. Chị H xin rút lại phần yều cầu khởi kiện đối với số tiền 10.000.000 đồng vay vào 15/11/2020 khi nào có đủ tài liệu, chứng cứ thì chị H sẽ khởi kiện anh K sau.

* Bị đơn anh Lê Tuấn K dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gởi cho Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở lời trình bày của các đương sự, các tài liệu chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc vắng mặt bị đơn anh Lê Tuấn K. Xét thấy, bị đơn anh K đã được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt phía bị đơn anh K.

[2] Về quan hệ tranh chấp: Xác định đây là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

[3] Về yêu cầu của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H: yêu cầu anh K phải có nghĩa vụ trả cho chị H số tiền vốn vay là 85.000.000 đồng của 03 biên nhận do anh K viết và ký tên ghi họ tên vào biên nhận, không yêu cầu tính lãi. Chị H xin rút lại phần yều cầu khởi kiện đối với số tiền 10.000.000 đồng vay vào 15/11/2020 khi nào có đủ tài liệu, chứng cứ chị H sẽ khởi kiện anh K sau. Xét thấy, yêu cầu của phía nguyên đơn chị H là có căn cứ để chấp nhận. Bởi lẽ, tại phiên tòa hôm nay phía nguyên đơn chị H xác định phía chị H có cho anh Lê Tuấn K vay không lãi 03 lần với tổng số tiền là 85.000.000 đồng. Khi vay tiền anh K có viết biên nhận và ký tên ghi họ tên vào biên nhận. Sau khi vay đến hạn trả theo thỏa thuận nhưng anh K không trả. Phía chị H có đòi nhiều lần nhưng phía anh K hẹn trả mà không trả kéo dài cho đến nay. Phía chị H cũng có cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh là có cho anh K vay tiền cụ thể là 03 biên nhận vay tiền bản gốc do anh K viết có ký tên và ghi họ tên vào biên nhận vay tiền, nên yêu cầu của chị H là có căn cứ để chấp nhận.

[4] Đối với phía bị đơn anh Lê Tuấn K dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn không đến và không có ý kiến gởi cho Tòa án. Cho thấy, phía bị đơn anh K đã biết được số tiền mà phía nguyên đơn chị H đã khởi kiện để yêu cầu phía bị đơn anh K phải có nghĩa vụ trả, nhưng phía bị đơn anh K đã từ bỏ nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh là mình có nợ số tiền vay đối với yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn hay không, đều này cũng đồng nghĩa là phía bị đơn anh K đã thừa nhận số tiền còn nợ mà phía nguyên đơn đã khởi kiện và yêu cầu phía bị đơn anh K phải có nghãi vụ trả nên Kiệt không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh. Việc bị đơn cố tình không đến là nhằm kéo dài thời gian trả nợ và gây khó khăn cho việc thu hồi nợ đối với phía nguyên đơn. Đối với phía bị đơn đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ đối với nguyên đơn nên cần buộc phía bị đơn anh Lê Tuấn K phải có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền vốn vay là 85.000.000 đồng.

[5] Đối với phía nguyên đơn Thủy, tại phiên tòa hôm nay xin rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với anh Lê Tuấn K về việc yêu anh Lê Tuấn K trả số tiền vay là 10.000.000 đồng vào ngày 15/11/2020. Xét thấy, việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của phía nguyên đơn chị H là hoàn toàn tự nguyện và phù hợp quy định pháp luật nên cần ghi nhận, căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc khởi kiện đối với anh Lê Tuấn K trả số tiền vay là 10.000.000 đồng vào ngày 15/11/2020. Chị Nguyễn Thị H có quyền khởi kiện lại nội dung đã rút yêu cầu theo thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định. Chị H không phải chịu án phí đối với yêu cầu đã đình chỉ xét xử.

[6] Về lãi suất: Tại phiên tòa hôm nay phía nguyên đơn chị H không yêu cầu tính lãi, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

[7] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H, nên phía bị đơn anh K phải chịu án phí trên số tiền phải trả cho phía chị H là 85.000.000đồng theo quy định tại khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; nên anh K phải có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm là 4.250.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 2 Điều 244, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, 271, 272 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Đieàu 463, 466, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự; khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

1. Về dân sự: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị H.

Buộc anh Lê Tuấn K phải có nghĩa vụ trả cho chị Nguyễn Thị H số tiền vốn vay là 85.000.000 đồng.

Kể từ ngày nguyên đơn chị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn anh K chậm thực hiện nghĩa vụ thì còn phải chịu lãi suất theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015, trên số tiền chậm trả tương ứng thời gian chậm thi hành án.

Đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc khởi kiện đối với anh Lê Tuấn K trả số tiền vay là 10.000.000 đồng vào ngày 15/11/2020.

Chị Nguyễn Thị H có quyền khởi kiện lại nội dung đã rút yêu cầu theo thủ tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định 2. Về án phí:

Buộc anh Lê Tuấn K phải có nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm là 4.250.000 đồng.

Hoàn lại cho chị Nguyễn Thị H 2.375.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm mà chị H đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006624 ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Cai Lậy.

3. Về quyền kháng cáo:

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn anh Lê Tuấn K thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 53/2021/DS-ST

Số hiệu:53/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 04/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về