Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 51/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 51/2021/DS-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2020/TLST-DS ngày 23/11/2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2021/QĐXXST - DS, ngày 09 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C; địa chỉ: Số x, Phố L, phường H, quận H, thành phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Thế K – Pho Giam đốc phong giao dich Ngân hang C huyên L; địa chỉ: Ấp X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo uy quyền cho nguyên đơn “Giấy ủy quyền ngày 28/9/2021” (Có mặt).

2. Bị đơn: Ba Giang Thi H, sinh năm 1985; đia chỉ: Ấp P, xa S, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện lập ngày 21/9/2020, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn trình bày:

Bà Giang Thị H vay của Ngân hàng C các khoản vay cụ thể như sau:

Khoản vay thứ nhất: Vào ngày 28/8/2015, bà Giang Thi H có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của ngân hàng C số tiền 12.000.000 đồng theo chương trình cho vay nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn. Mục đích vay: Xây dựng công trình vệ sinh. Thời hạn vay 60 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng một lần. Lãi suất 0,75%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay. Đến ngày 07/9/2015 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân vào ngày 08/9/2015 với số tiền là 12.000.000đồng, mã món vay: 66000006705417660 và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 08/9/2020, bà H đã nhận đủ số tiền trên. Tuy nhiên, từ 08/9/2020 đến nay bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc như thỏa thuận cho Ngân hàng, Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn và nhiều lần yêu cầu bà H thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc nhưng bà H không thực hiện.

Khoản vay thứ hai: Ngày 28/8/2015, bà Giang Thi H có làm giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay để vay của Ngân hàng số tiền 10.000.000 đồng theo chương trình cho vay sản xuất kinh doanh vùng khó khăn. Mục đích vay: Chăn nuôi heo. Thời hạn vay 36 tháng, kỳ hạn trả nợ 12 tháng một lần. Lãi suất 0,75%/tháng, lãi suất nợ quá hạn là 130% lãi suất khi cho vay. Đến ngày 07/9/2015 được Ngân hàng phê duyệt và giải ngân vào ngày 08/9/2015 với số tiền là 10.000.000đồng, mã món vay: 666000006705420263 và xác định hạn trả nợ cuối cùng là ngày 08/9/2018. Đến hạn trả nợ, bà H xin gia hạn nợ nên hạn trả nợ cuối cùng là ngày 08/9/2019. Tuy nhiên, từ 08/9/2019 đến nay bà H không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc như thỏa thuận cho Ngân hàng, Ngân hàng đã chuyển sang nợ quá hạn và nhiều lần yêu cầu bà H thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc nhưng bà H không thực hiện.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Giang Thị H phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ với tổng số tiền của hai khoản vay còn nợ đã quá hạn tính đến ngày 09/9/2021 là 25.118.116 đồng, bao gồm 22.000.000 đồng tiền nợ gốc và 3.118.116 đồng tiền lãi và lãi phát sinh cho đến khi trả xong nợ gốc.

Đối với bị đơn bà Giang Thi H: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà Huệ, nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà H hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà H để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thu lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 471, 474 của Bộ luật dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Từ sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà Giang Thị H, nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà H hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa bị đơn bà Giang Thi H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn tại phiên tòa.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C buộc bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc là 22.000.000đồng: Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ngân hàng có cung cấp cho Tòa án các chứng cứ chứng minh cho từng khoản vay của bà Giang Thị H, cụ thể: Khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Giang Thi H, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 08/9/2015, mã món vay:

66000006705417660 và khoản vay theo giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Giang Thi H, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 08/9/2015, mã món vay: 666000006705420263 tại mục người vay có chữ ký tên Giang Thị H và các giấy tờ khác có liên quan. Xét thấy việc ký kết giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay giữa bà Giang Thi H với Ngân hàng và giải ngân theo sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 08/9/2015, mã món vay: 66000006705417660 và giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay giữa bà Giang Thi H với Ngân hàng và giải ngân theo sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 08/9/2015, mã món vay: 66000006705420263 là hoàn toàn tự nguyện. Tại thời điểm ký kết, các bên tham gia ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền và năng lực giao kết hợp đồng.

Hợp đồng đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật. Đối với bị đơn bà Giang Thị H, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bà H biết nhưng bà H không có ý kiến phản đối gì xem như tự từ bỏ quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên đủ cở sở để Hội đồng xét xử khẳng định bà Giang Thị H có thực hiện việc vay vốn của Ngân hàng C số tiền của hai khoản vay là 22.000.000đồng là có thật. Do đó, Ngân hàng C yêu cầu Tòa án buộc Giang Thị H phải trả nợ số tiền gốc 22.000.000đồng là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 290, Điều 471, Điều 474 Bộ luật dân sự năm 2005 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về lãi suất: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn buộc bị đơn có nghĩa vụ trả số tiền lãi còn nợ đối với khoản vay ngày 8/9/2015 số tiền vay là 12.000.000đồng, mã món vay: 66000006705417660 từ ngày vay đến ngày 09/9/2021 là 3.118.116đồng; riêng đối với khoản vay ngày 8/9/2015 số tiền vay là 10.000.000đồng, mã món vay: 6666000006705420263 yêu cầu tính lãi tiếp theo từ ngày 10/9/2021 cho đến khi trả xong nợ gốc. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ giấy đề nghị vay vốn kiêm phương án sử dụng vốn vay của bà Giang Thi H, kèm sổ lưu tờ rời theo dõi nợ vay – thu nợ - dư nợ vào ngày 08/9/2015, mã món vay: 66000006705417660 thì lãi suất cho vay trong hạn là 0,75%/tháng và lãi suất quá hạn là 0,975%/tháng. Lãi suất do các bên thỏa thuận là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Mặt khác, theo bảng kê tính lãi hộ Giang Thị H đối với khoản vay ngày 8/9/2015 số tiền vay là 12.000.000đồng, mã món vay: 66000006705417660 đến ngày 09/9/2021 của nguyên đơn cung cấp thì sau khi vay bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn tiền lãi tính đến ngày 09/9/2021 là 3.729.451đồng, số tiền lãi còn nợ là 3.118.116đồng. Do vậy, việc bị đơn không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bị đơn là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, bị đơn phải hoàn trả cho Ngân hàng số tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng của khoản vay ngày 8/9/2015 số tiền vay là 12.000.000đồng, mã món vay: 66000006705417660 tạm tính đến ngày 09/9/2021 là 3.118.116đồng và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán của các khoản vay theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi trả xong nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với nội dung Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ nội dung áp dụng án lệ về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Từ những phân tích trên, bị đơn bà Giang Thị H có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng C dư nợ của hai khoản vay tính đến ngày 09/9/2021 với số tiền vay gốc là 22.000.000đồng (Hai mươi hai triệu đồng), tiền lãi là 3.118.116đồng (Ba triệu một trăm mười tám nghìn một trăm mười sáu đồng), tổng cộng là 25.118.116đồng (Hai mươi lăm triệu một trăm mười tám nghìn một trăm mười sáu đồng). Kể từ ngày 10/9/2021, bà H còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán của từng khoản vay, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà H phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[4]. Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị đơn bà Giang Thị H phải chịu 1.255.905 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 280, 285, 290, 471 và 474 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng C: Buộc bà Giang Thị H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng C dư nợ tính đến ngày 09/9/2021 với số tiền vay gốc là 22.000.000đồng (Hai mươi hai triệu đồng), tiền lãi là 3.118.116đồng (Ba triệu một trăm mười tám nghìn một trăm mười sáu đồng), tổng cộng là 25.118.116đồng (Hai mươi lăm triệu một trăm mười tám nghìn một trăm mười sáu đồng).

“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Giang Thị H phải chịu 1.225.905 đồng (Một triệu hai trăm hai mươi lăm nghìn chín trăm lẻ năm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền giao kết thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 51/2021/DS-ST

Số hiệu:51/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về