Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CM MỸ, TỈNH ĐNG NAI

BẢN ÁN 46/2023/DS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 64/TLST-DS ngày 04 tháng 5 năm 2023 về việc: “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2023/QĐXXST-DS ngày 08 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1968.

Địa chỉ: F đường L, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn:

1. Ông Trần Thanh V, sinh năm 1967

2. Bà Võ Thị T1, sinh năm 1970 Cùng địa chỉ: Ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

(các đương sự vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày: Bà và ông V, bà T1 có mối quan hệ quen biết nhau từ lâu nên bà có cho vợ chồng ông V bà T1 vay tiền và vàng, cụ thể: cho ông V bà T1 vay vàng làm 03 lần, lần đầu khoảng tháng 8/2012 cho vay 1 sợi dây chuyền 3 chỉ và 03 chỉ vàng 9999, lần thứ hai khoảng năm 2013 vay 02 chỉ và cách đó khoảng nửa tháng sau vay thêm 02 chỉ, tổng cộng là 10 chỉ vàng. Lần đầu vay 06 chỉ là cả ông V và bà T1 vay có viết giấy vay, 02 lần sau là bà T1 vay do lúc đó ông V đi chấp hành án. Khi cho ông V bà T1 vay bà không yêu cầu lãi suất. Ngoài cho ông V bà T1 vay vàng thì trước năm 2012, ông V bà T1 có vay tiền của bà nhiều lần mỗi lần một ít nên không viết giấy vay. Đến ngày 29/10/2017 bà yêu cầu ông V và bà T1 viết giấy nhận nợ nên ông V có viết Giấy hẹn và thừa nhận còn nợ số tiền 200.000.000 đồng. Từ đó đến nay ông V bà T1 chưa trả cho bà được khoản tiền và vàng nào. Đối với khoản vay 04 chỉ vàng, khi cho vay bà không yêu cầu ông V, bà T1 viết giấy vay nên bà không yêu cầu ông V bà T1 trả khoản này, đối với khoản vay 200.000.000 đồng do giấy hẹn chỉ có một mình ông V ký, bà T1 không thừa nhận, do đó bà chỉ yêu cầu một mình ông V trả khoản vay này.

Nay bà yêu cầu Tòa án buộc ông V và bà T1 phải trả cho bà 06 chỉ vàng 9999 và yêu cầu một mình ông V trả cho bà 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất.

* Theo bản tự khai khai, quá trình làm việc bị đơn ông Trần Thanh V trình bày:

Ông và bà T1 có vay của bà T 06 chỉ vàng loại 9999, có viết giấy mượn vàng, đối với khoản vay 06 chỉ vàng này, ông và bà T1 chưa trả cho bà T. Đối với khoản vay 04 chỉ vàng, ông không trực tiếp vay vì lúc ông đang đi chấp hành án, vợ ông là bà T1 có vay không thì ông không biết. Đối với khoản vay 200.000.000 đồng, ông thừa nhận ngày 29/10/2017 có viết giấy vay của bà T số tiền này, đây là khoan vay riêng của ông, bà T1 không biết.

Nay bà T khởi kiện yêu cầu ông và bà T1 trả 06 chỉ vàng và yêu cầu một mình ông trả số tiền 200.000.000 đồng thì ông đồng ý, tuy nhiên do hoàn cảnh bây giờ khó khăn nên không thể trả hết một lần cho bà T được.

* Theo biên bản lấy lời khai khai bị đơn bà Võ Thị T1 trình bày:

Bà thừa nhận có vay của bà T 06 chỉ vàng gồm 1 sợi dây chuyền có trọng lượng 03 chỉ vàng 9999 và 03 chỉ vàng 9999, khi vay hai bên có viết giấy mượn vàng. Bà đã trả cho bà T 06 chỉ vàng nhưng không nhớ rõ thời gian nào, vì tin tưởng nên bà không lấy lại giấy mượn vàng của bà T. Đối với khoản vay 200.000.000 đồng là khoản vay riêng của ông V với bà T, bà không biết. Nay bà T khởi kiện yêu cầu bà và ông V trả 06 chỉ vàng 9999 thì bà không đồng ý * Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về quan hệ pháp luật, thu thập chứng cứ, việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng và Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) thực hiện đúng theo quy định pháp luật, quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự được đảm bảo; việc xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định pháp luật. Về nội dung vụ án, bà T khởi kiện yêu cầu bà T1, ông V phải có nghĩa vụ trả cho bà 06 chỉ vàng 9999 và yêu cầu một mình ông V trả cho bà 200.000.000 đồng là có cơ sở nên chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị T có đơn khởi kiện đối với bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V yêu cầu trả số vàng và tiền đã vay nên xác định đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự, trong đó bà T là nguyên đơn, bà T1, ông V là bị đơn. Bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V cư trú tại xã B, huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Mỹ.

Nguyên đơn bà Trần Thị T, bị đơn bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về yêu cầu đối với số vàng của nguyên đơn: Bà Trần Thị T cung cấp “Giấy mượn vàng” ngày 07/3/2012 có nội dung bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V có mượn của bà Trần Thị T 06 chỉ vàng 9999. Quá trình giải quyết vụ án, bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V thừa nhận có vay 06 chỉ vàng của bà T như trong “Giấy mượn vàng”. Tuy nhiên, bà T1 cho rằng đã trả 06 chỉ vàng cho bà T nhưng không cung cấp được tài liệu chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình, ông V thừa nhận ông và bà T1 có vay của bà T 06 chỉ vàng 9999 và chưa trả cho bà T, nay bà Tình yêu c ông và bà T1 phải trả 06 chỉ vàng 9999 thì ông đồng ý.

Như vậy, có căn cứ xác định bà Tl, ông V còn nợ bà T 06 chỉ vàng 9999, do đó yêu cầu khởi kiện của bà T là có cơ sở nên buộc bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V trả cho bà Trần Thị T 06 chỉ vàng 9999 quy đổi ra tiền Việt Nam đồng theo giá bán ra của tiệm vàng tại địa phương tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 5.730.000 đồng/ 01 chỉ vàng 9999 x 06 chỉ vàng 9999 = 37.380.000 đồng (ba mươi bảy triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng).

[2.2] Về yêu cầu đối với số tiền của nguyên đơn: Bà Trần Thị T cung cấp “Giấy hẹn” ngày 29/10/2017 có nội dung ông Trần Thanh V mượn của bà Trần Thị 2 đồng có chữ ký của ông V. Quá trình giải quyết vụ án, ông Trần Thanh V thừa nhận có vay 200.000.000 đồng của bà T như trong “Giấy hẹn” và chưa trả được khoản nào. Bà T chỉ yêu cầu một mình ông V trả khoản vay này và ông V đồng ý toàn bộ. Đây là những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, buộc ông Trần Thanh V thanh toán cho bà Trần Thị T số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) là phù hợp.

[2.3] Về lãi suất: Bà Trần Thị T không yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền ông V phải trả nên Hội đồng xét xử không xem xét về lãi suất.

[3] Về án phí: Bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thị T 06 chỉ vàng 9999 tương đương số tiền 37.380.000 đồng (ba mươi bảy triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng) nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 37.380.000 đồng x 5% = 1.719.000 đồng. Ông Trần Thanh V có nghĩa vụ thanh toán cho bà Trần Thị T 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 200.000.000 đồng x 5% = 10.000.000 đồng.

[4] Quan điểm của Viện kiểm sát phù hợp quy định pháp luật và phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các Điều 26, Điều 35, Điều 39 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 471 và Điều 474 của Bộ luật dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị T đối với bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Buộc bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V thanh toán cho bà Trần Thị T 06 chỉ vàng 9999 quy đổi ra tiền Việt Nam đồng theo giá bán ra của tiệm vàng tại địa phương tại thời điểm xét xử sơ thẩm là 37.380.000 đồng (ba mươi bảy triệu ba trăm tám mươi nghìn đồng).

Buộc ông Trần Thanh V thanh toán cho bà Trần Thị T số tiền 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

- Về án phí: Bà Võ Thị T1 và ông Trần Thanh V phải chịu 1.719.000 đồng (Một triệu bảy trăm mười chín nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Ồng Trần Thanh V phải chịu 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả bà Trần Thị T 6.406.000 đồng (Sáu triệu bốn trăm lẻ sáu nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cẩm Mỹ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000012 ngày 04/5/2023.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 46/2023/DS-ST

Số hiệu:46/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Mỹ - Đồng Nai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về