Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 43/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ ÔN, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 43/2022/DS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2022/TLST- DS ngày 07 tháng 7 năm 2022, về việc Tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản”theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2022/QĐXXST-DS ngày 26 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phạm Thị B, sinh năm 1963. “có mặt” Địa chỉ cư trú: số B, khu C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1955. “vắng mặt”

2.2. Bà Lê Thị V, sinh năm 1958 “vắng mặt” Cùng địa chỉ cư trú: ấp L, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 05/7/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị B trình bày: Do quen biết với nhau từ trước nên bà có cho ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V vay số tiền 210.000.000đ để phục vụ việc chăm sóc vườn và làm vốn mua bán. Hai bên có làm biên nhận vay tiền đề ngày 05/5/2021 âm lịch, thoả thuận lãi suất 1,5%/tháng, sau khi vay phía bị đơn có trả cho bà được 01 tháng lãi thì ngưng. Nay do bà có nhu cầu thu hồi vốn để phục vụ cho việc làm ăn nên có liên hệ với ông K, bà V yêu cầu trả nợ cho bà nhưng ông K, bà V hứa hẹn mà không thực hiện. Nay bà khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc ông K và bà V có nghĩa vụ trả cho bà số tiền vốn vay còn nợ là 210.000.000đ theo biên nhận ngày 05/5/2021 âm lịch, bà không yêu cầu tính lãi.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V tham gia tố tụng để giải quyết vụ án nhưng bị đơn ông K, bà V vắng mặt không lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Nguyên đơn bà Phạm Thị B khởi kiện yêu cầu bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V có địa chỉ cư trú ấp L, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long trả lại số tiền vay còn nợ 210.000.000đ theo biên nhận vay tiền do ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V ký tên vào ngày 05/5/2021 âm lịch. Do đó quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng dân sự về vay tài sản”, nên theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Tòa án nhân dân huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[1.2] Bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V được triệu tập hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không lý do mà không có người đại diện tham gia phiên tòa. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung:

[2.1] Vào ngày 05/5/2021 âm lịch bà Phạm Thị B có cho ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V vay số tiền 210.000.000đ, có viết biên nhận vay tiền, thoả thuận lãi suất 1,5%/tháng, có chữ ký tên của ông K, bà V. Mặt khác Tòa án đã triệu tập bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do, không trình bày văn bản ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do vậy thực tế việc vay tiền có xảy ra, sự việc không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2.2] Xét quá trình thực hiện hợp đồng đến nay bị đơn ông K, bà V vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn. Nguyên đơn đã đến đòi nhiều lần nhưng bị đơn không trả là vi phạm nghĩa vụ trả tiền được quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó việc nguyên đơn bà B yêu cầu bị đơn ông K, bà V phải có nghĩa vụ trả số tiền vốn vay còn nợ 210.000.000đ, không yêu cầu tính lãi là có lợi cho phía bị đơn và có căn cứ phù hợp theo quy định tại các Điều 463, 466 của Bộ luật Dân sự năm 2015 nên có cơ sở chấp nhận. Nên Hội đồng xét xử xét buộc bị đơn ông K và bà V có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà B số tiền vay còn nợ là 210.000.000đ.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 6 và khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Cụ thể buộc ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V phải nộp 210.000.000đ x 5% = 10.500.000đ (Mười triệu năm trăm ngàn đồng).

Nguyên đơn bà Phạm Thị B không phải chịu án phí do yêu cầu được chấp nhận, nên hoàn trả cho bà Phạm Thị B số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.250.000đ (Năm triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 0014685 ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 92, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 463, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 6, khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị B.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Phạm Thị B số tiền vay còn nợ 210.000.000đ (Hai trăm mười triệu đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm:

Buộc ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị V có nghĩa vụ nộp 10.500.000đ (Mười triệu năm trăm ngàn đồng).

Hoàn trả bà Phạm Thị B số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 5.250.000đ (Năm triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) theo biên lai thu số 0014685 ngày 05 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 43/2022/DS-ST

Số hiệu:43/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Ôn - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về