Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 32/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHƯỚC, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 32/2022/DS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tân Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 10/2022/TLST- DS ngày 19 tháng 01 năm 2022 về việc “ Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1965; Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện P, tỉnh Tiền Giang.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1949;

Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện P, tỉnh Tiền Giang.

(Bà L, bà H có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 20/12/2021, tờ tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Loan trình bày:

Bà và bà Nguyễn Thị H, ông Ngô Văn T là hàng xóm quen biết nhau nên ngày 04-5-2015 âm lịch, bà có cho bà H, ông T vay số tiền là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, có làm biên nhận do bà H viết ký tên ghi họ tên, hai bên thỏa thuận miệng thời hạn vay là 02 tháng kể từ ngày 04-5-2015 âm lịch sẽ trả và có thỏa thuận miệng vay 1.000.000 đồng lãi suất sẽ là 50.000 đồng/tháng, còn vàng thì vay 01 chỉ vàng lãi suất là 50.000 đồng/tháng. Sau khi vay, bà H có trả lãi cho bà L được 01 tháng với số tiền là 1.100.000 đồng thì ngưng trả lãi, đến thời hạn trả nợ gốc bà L nhiều lần yêu cầu nhưng bà H, ông T vẫn không trả nợ gốc cho bà. Bà khởi kiện yêu cầu bà H, ông T trả số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, trả lãi suất tạm tính từ tháng 5-2015 đến tháng 12/2021 với số tiền lãi là 50.560.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

Tại bản tự khai bổ sung ngày 01-3-2022 và biên bản hòa giải ngày 01-3- 2022, bà L thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện. Theo đó, bà L chỉ yêu cầu cá nhân bà Nguyễn Thị H (không yêu cầu ông Ngô Văn T liên đới) trả số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, bà yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật kể từ ngày 05-6-2015 cho đến khi Tòa án xét xử vụ án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về tiền lãi tạm tính là 50.560.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng). Bà L yêu cầu bà H trả số tiền vay gốc 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, trả đủ một lần khi án có hiệu lực pháp luật, bà không yêu cầu tính lãi.

* Tại tờ tự khai đề ngày 17-02-2022 bị đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Vào ngày 04-5-2015 âm lịch bà có vay của bà Nguyễn Thị L số tiền là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, có làm biên nhận do bà viết và ký tên ghi họ tên vào biên nhận, thời hạn vay là 02 tháng kể từ ngày 04-5-2015 âm lịch sẽ trả, bà và bà L có thỏa thuận miệng lãi suất vay là 1.000.000 đồng/tháng đối với số tiền vay 22.000.000 đồng và 100.000 đồng/tháng đối với 02 chỉ vàng loại 24kra, bà đã đóng tiền lãi cho bà L được 04 năm nhưng hai bên không làm biên nhận tiền lãi. Hiện nay bà không có khả năng trả tiền vay gốc và tiền lãi cho bà L nữa. Ngoài ra, việc vay tiền của bà S là để trả cho các khoản nợ khác nên ông T cũng không biết. Tính đến nay bà còn nợ bà L số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra. Bà đồng ý trả cho bà L số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, bà yêu cầu không trả lãi nữa, do điều kiện kinh tế của bà rất khó khăn, không có khả năng trả số nợ trên cho bà L nên yêu cầu Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật mà giải quyết.

Tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị H thống nhất với yêu cầu của bà L, bà H đồng ý trả số tiền vay gốc cho bà L là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, bà không tranh chấp về số tiền lãi đã trả và yêu cầu không trả lãi nữa nhưng do điều kiện kinh tế của bà rất khó khăn nên không có khả năng trả số nợ trên cho bà L, bà H xin trả dần theo phương thức là khả năng có bao nhiêu tiền thì bà sẽ trả cho bà L bấy nhiêu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả số tiền và vàng vay còn nợ. Bị đơn có nơi cư trú tại ấp Đ, xã T, huyện P, tỉnh Tiền Giang. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng vay tài sản và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về tư cách tham gia tố tụng: Từ thông báo về việc thụ lý vụ án, Tòa án xác định ông Ngô Văn T tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn trong vụ án, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu cầu bị đơn là bà Nguyễn Thị H có trách nhiệm trả tiền và vàng vay nên ông Ngô Văn T không còn liên quan trong vụ án. Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà L là quyền quyết định và tự định đoạt của bà, không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại Điều 5, Điều 188 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận.

[3] Về phạm vi khởi kiện: Bà L khởi kiện yêu cầu bà H và ông T trả số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, trả lãi suất tạm tính là 50.560.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng). Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà L thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện và rút lại một phần yêu cầu về nợ lãi. Theo đó, bà L chỉ yêu cầu cá nhân bà H trả số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra mà không yêu cầu ông T liên đới trả số nợ trên cho bà, bà rút lại yêu cầu bà H trả số tiền lãi suất tạm tính là 50.560.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng), bà H không có ý kiến gì về việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của bà L. Xét việc rút lại một phần yêu cầu khởi kiện của bà L là hoàn toàn tự nguyện nên được chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu đã rút là phù hợp với quy định tại Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự .

[4] Về nội dung vụ án: Bà L yêu cầu bà H trả số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, trả đủ một lần khi án có hiệu lực pháp luật. Chứng cứ bà L cung cấp là bản chính biên nhận ngày 04-5-2015 âm lịch.

Bà H thống nhất thừa nhận còn nợ bà L số tiền vay gốc là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, biên nhận ngày 04-5-2015 âm lịch là do bà tự viết ký tên ghi họ tên; bà đồng ý trả số tiền, vàng vay còn nợ cho bà L, nhưng hiện nay bà rất khó khăn về kinh tế, không có khả năng trả nợ cho bà L, bà xin được trả dần theo phương thức là khả năng bà có bao nhiêu tiền sẽ trả bấy nhiêu nhưng ý kiến này không được bà L đồng ý và cũng không phù hợp với quy định của pháp luật nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về lãi suất: Bà L không yêu cầu tính, bà H trình bày đã trả lãi cho bà L với mức 1.100.000 đồng/tháng và đã trả được 4 năm, nhưng bà H không tranh chấp về số tiền lãi đã trả nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Hội đồng xét xử xét thấy, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L và bị đơn bà Nguyễn Thị H đã thống nhất được với nhau về số tiền, vàng vay còn nợ là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, nhưng chưa thống nhất được với nhau về phương thức và thời gian trả. Theo thỏa thuận của hai bên thì thời hạn trả nợ là 02 tháng kể từ ngày 04-5-2015 âm lịch sẽ trả, đến thời hạn trả nợ bà L nhiều lần yêu cầu nhưng bà H vẫn không trả số nợ trên cho bà L, hiện nay bà H cũng không đưa ra được phương thức và thời gian trả nợ cụ thể cho bà L; điều này đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay trong hợp đồng vay tài sản theo quy định tại Điều 463, Điều 466 của Bộ luật Dân sự. Do đó, bà L khởi kiện yêu cầu bà H trả số tiền vay còn nợ là 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại 24kra, trả đủ một lần khi án có hiệu lực pháp luật là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà L được chấp nhận nên bà Hoa phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuy nhiên, ngày 23-3-2022 bà H có đơn đề nghị miễn nộp tiền án phí Tòa án với lý do bà là Người cao tuổi, có điệu kiện kinh tế khó khăn và được Ủy ban nhân dân xã Tân Hòa Tây xác nhận cho bà. Xét thấy, đề nghị này của bà H là phù hợp với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên được chấp nhận, bà H được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 188, Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sựÁp dụng các Điều: 463, 465, 466, Điều 468 của Bộ luật Dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L.

1. Buộc bà Nguyễn Thị H trả cho bà Nguyễn Thị L số tiền 22.000.000 đồng (hai mươi hai triệu đồng) và 02 (hai) chỉ vàng loại vàng 24kra.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan Thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

2. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu của bà Nguyễn Thị L về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị H trả số tiền lãi tạm tính là 50.560.000 đồng (năm mươi triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

- Bà Nguyễn Thị H được miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Hoàn lại cho bà Nguyễn Thị L số tiền 2.064.000 đồng (hai triệu không trăm sáu mươi bốn nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0002916 ngày 13-01-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang.

4. Quyền kháng cáo: Bà L, bà H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 32/2022/DS-ST

Số hiệu:32/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phước - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về