Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 27/2024/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BC GIANG

BẢN ÁN 27/2024/DS-PT NGÀY 02/02/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong các ngày 23 tháng 01 năm 2024 và 02 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 211/2023/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2023 về Tranh chấp hợp đồng vay tài sản do bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 189/2023/QĐ-PT ngày 26/10/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 280/2023/QĐ-PT ngày 11/12/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 314/2023/QĐ-PT ngày 02/01/2024 và Quyết định tạm ngừng phiên tòa số 11/2024/QĐ-PT ngày 23/01/2024 giữa các đương sự:

Ngun đơn: chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1989 (có mặt);

Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị L: Luật sư Ong Thị T (có mặt) và Luật sư Nguyễn Thị T1 (có mặt tại phiên tòa ngày 23/01/2024, vắng mặt tại phiên tòa ngày 02/02/2024) - Văn phòng Luật sư Vũ Anh H, Đoàn luật sư tỉnh B.

Địa chỉ: số D, đường L, phường H, thành phố B, tỉnh Bắc Giang;

Bị đơn: chị Đồng Thị H1, sinh năm 1985 (có mặt tại phiên tòa ngày 23/01/2024, xin vắng mặt tại phiên tòa ngày 02/02/2024) Địa chỉ: thôn A, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chị H1, Luật sư Đồng Duy C - Văn phòng L3, Đoàn luật sư tỉnh B (có mặt);

Địa chỉ: số B, đương L, phường D, thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - Anh Nguyễn Minh N, sinh năm 1984 (vắng mặt);

Địa chỉ: thôn A, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang - Anh Hoàng Văn L1, sinh năm 1985 (vắng mặt);

Địa chỉ: thôn N, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang Người kháng cáo: bị đơn - chị Đồng Thị H1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS-ST ngày 14 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang thì nội dung vụ án như sau:

Nguyên đơn - chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và chị Đồng Thị H1 có mối quan hệ quen biết nhau từ trước nên chị H1 hỏi vay tiền chị để làm ăn kinh doanh nhiều lần. Cụ thể:

Ngày 10/8/2022, Chị cho chị H1 vay 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng), hai bên có lập giấy vay tiền và chị H1 ký vào mục người vay, hai bên không thoả thuận về thời hạn thanh toán và lãi suất nhưng hai bên có thoả thuận miệng khi nào chị cần lấy tiền thì báo trước và chị H1 sẽ thanh toán cho chị số tiền nợ, chị H1 phải chịu mức lãi là 1%/tháng.

Ngày 09/9/2022, chị tiếp tục cho chị H1 vay 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), hai bên cũng lập giấy vay tiền và chị H1 cũng ký vào mục người vay tiền, hai bên cũng không thoả thuận về thời hạn vay và mức lãi suất nhưng hai bên có thoả thuận miệng là khi nào chị cần tiền thì báo trước và chị H1 sẽ trả, hai bên thoả thuận miệng lãi 1%/tháng.

Ngày 08/10/2022, chị H1 tiếp tục vay của chị 2 lần tiền, một lần là 600.000.000 đồng và một lần là 250.000.000 đồng. Lần thứ nhất, hai bên có lập giấy vay tiền và chị H1 cũng ký vào giấy vay tiền ở mục người vay tiền, sau khi chị H1 lấy thêm 250.000.000 đồng thì chị có tự ý ghi thêm “+250” bằng mực đỏ và viết thêm chữ (cùng ngày vay thêm 250 triệu đồng) vào giấy vay ngày 08/10/2022. Tổng số tiền chị cho chị H1 vay ngày 08/10/2022 là 850.000.000 đồng (tám trăm năm mươi triệu đồng). Theo giấy vay tiền này, hai bên thoả thuận thời hạn thanh toán là ngày 16/7/2023 và mức lãi hai bên không ghi vào giấy mà thoả thuận chị H1 phải chịu là 1%/tháng. Tuy nhiên, tại mục “Tôi hẹn trả ngày....” do chị H1 tự điền là ngày 16/7/2022 là do chị H1 viết sai năm và chị sơ ý không kiểm tra lại.

Đối với khoản vay ngày 08/10/2022, do chưa đến hạn thanh toán nên chị không kiện chị H1 khoản vay này nữa, chị sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.

Quá trình vay tiền, chị H1 đã trả được chị 02 tháng tiền lãi (tháng 8 và tháng 9/2022), số tiền cụ thể chị không nhớ.

Ngày 21/6/2023, chị L trình bày bổ sung: ngoài 03 khoản vay nói trên, từ tháng 11/2021 đến 18/11/2022, chị còn cho chị H1 vay tiền nhiều lần nữa, có lần cho vay trực tiếp bằng tiền mặt, có lần cho vay thông qua chuyển khoản.

Ngày 09/8/2022, chị L cho chị H1 vay tổng số tiền 485.000.000 đồng thông qua chuyển khoản (chị chuyển cho chị H1 03 lần tiền, lần 1 chuyển 185.000.000 đồng, lần 2 chuyền 100.000.000 đồng, lần 3 chuyền 200.000.000 đồng) và không lập giấy biên nhận vay tiền. Hai bên không thỏa thuận về thời hạn thanh toán nhưng có thỏa thuận miệng là chị H1 phải chịu mức lãi suất là 1.000 đồng/1 triệu/01 ngày. Đến ngày 10/8/2022, chị L tiếp tục cho chị H1 vay 02 lần tiền, lần 1: 400.000.000 đồng (khoản vay này, chị cho chị H1 vay qua chuyển khoản và không lập giấy biên nhận vay tiền. Hai bên không thỏa thuận về thời hạn thanh toán nhưng có thỏa thuận miệng là chị H1 phải chịu mức lãi suất là 1.000 đồng/1 triệu/01 ngày), lần thứ hai chị cho chị H1 vay số tiền là 600.000.000 đồng bằng tiền mặt và hai bên có lập giấy biên nhận vay tiền. Lần vay này chị H1 chưa thanh toán cho chị cả gốc và lãi nên chị khởi kiện chị H1 về khoản vay 600.000.000 đồng này.

Từ ngày 24/8/2022 đến ngày 07/9/2022, chị H1 chuyển trả chị 1 lần tiền với tổng số tiền là 950.400.000 đồng, đây là tiền chị H1 trả nợ vay của chị vào ngày 09/8/2022 và ngày 10/8/2022. Nếu đối trừ số tiền chị H1 trả này sẽ còn thừa 65.400.000 đồng. Chị xác định là tiền chị H1 trả vào tiền lãi cho hai khoản vay chuyển khoản ngày 09/8/2022 và ngày 10/8/2022 và tiền lãi của một số khoản vay trước đó nhưng chị không nhớ là lãi của khoản vay nào. Đối với khoản vay 600.000.000 đồng mà chị cho chị H1 vay bằng tiền mặt ngày 10/8/2022 và tiền lãi của khoản vay này chị H1 chưa trả cho chị đồng nào.

Ngày 09/9/2022, chị H1 vay chị số tiền là 1.000.000.000 đồng thông qua chuyển khoản, chị chuyển cho chị H1 03 lần tiền, lần 1: chuyển 400.000.000 đồng, lần 2: chuyển 400.000.000 đồng, lần 3: chuyển 200.000.000 đồng (khoản vay này, chị cho chị H1 vay qua chuyển khoản và đồng thời lập giấy biên nhận vay tiền. Hai bên không thỏa thuận về thời hạn thanh toán nhưng có thỏa thuận miệng là chị H1 phải chịu mức lãi suất là 1.000 đồng/1 triệu/01 ngày). Khoản vay này, chị đang khởi kiện yêu cầu chị H1 thanh toán cho chị. Lý do chị cho chị H1 vay số tiền 1.000.000.000 đồng, chị lại vừa viết giấy vay tiền và đồng thời chuyển tiền qua tài khoản cho chị H1 trong khi các lần cho vay chuyển khoản khác chị lại không viết giấy vay tiền là do chị H1 yêu cầu chị cho vay tiền mặt nhưng khi giao tiền cho chị H1 thì chị không đủ tiền mặt và chị H1 cũng đồng ý nhận tiền chuyển khoản cho tiện nên chị đã chuyển khoản cho chị H1.

Đối với khoản vay này, từ ngày 23/9/2022 đến ngày 05/10/2022, chị H1 10 lần chuyền trả tiền cho chị với tổng số tiền là 950.000.000 đồng, còn nợ lại chị số tiền nợ gốc là 50.000.000 đồng và tiền lãi.

Trước đây, chị khởi kiện chị H1 đòi số tiền 1.000.000.000 đồng là vì chị chỉ lưu giữ được giấy vay số tiền vay 1.000.000.000 đồng và cũng không nhớ chị H1 đã thanh toán được bao nhiêu. Đến nay, theo sao kê tại ngân hàng chị mới biết được số tiền chị H1 đã thanh toán cho chị của khoản vay này. Đối chiếu thì khoản vay này chị H1 còn nợ lại chị tiền gốc là 50.000.000 đồng và lãi suất như hai bên đã thỏa thuận. Chị H1 chưa trả chị được đồng lãi suất nào của khoản vay này Nay, sau khi xem lại sao kê của ngân hàng, đối chiếu về việc chị H1 thanh toán trả tiền cho chị, chị yêu cầu chị H1 trả chị số tiền của khoản vay bằng tiền mặt 600.000.000 đồng vào ngày 10/8/2022 (có viết giấy biên nhận vay tiền) và số tiền nợ gốc 50.000.000 đồng chị H1 vay chị ngày 09/9/2022 và lãi suất 10%/năm theo quy định của pháp luật tính từ ngày vay của 2 khoản nợ này đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm Đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP110042 mang tên anh Nguyễn Minh N và chị Đồng Thị H1 là giấy chứng nhận chị H1 giao cho chị khi vay tiền, cụ thể vào thời gian nào chị không nhớ rõ, chị chỉ nhớ vào khoảng tầm tháng 7/2022 (âm lịch). Nay, anh N yêu cầu chị phải trả lại giấy chứng nhận này thì chị đồng ý trả lại chị H1 và anh N khi chị H1 đã thanh toán xong số tiền nợ chị và sẽ trả lại giấy chứng nhận tại Cơ quan thi hành án dân sự.

Bị đơn - chị Đồng Thị H1 trình bày: Chị và chị L quen biết nhau khi cùng nhau đi làm may ở Cầu Đ. Chị có vay của chị Nguyễn Thị L nhiều lần tiền, mỗi lần vay hai bên đều lập giấy vay tiền và chị đều ký nhận ở mục người vay. Trong năm 2022, chị vay chị L 03 lần, cụ thể: Ngày 10/08/2022 chị vay của chị L số tiền là 600.000.000 đồng; ngày 09/9/2022 chị vay của chị L số tiền là 1.000.000.000 đồng; ngày 08/10/2022, chị vay của chỉ Lý số tiền 600.000.000 đồng. Khi vay hai bên đều viết giấy vay tiền và ký vào mục người vay, đồng thời chị L chuyền tiền mặt trực tiếp cho chị, cũng có lần chị L chuyển khoản cho chị. Khi vay tiền hai bên không thỏa thuận về thời hạn thanh toán và không thỏa thuận về lãi suất, nhưng hai bên có thỏa thuận miệng về lãi suất, nhưng chị không nhớ rõ mức lãi là bao nhiêu. Quá trình giao dịch, chỉ có chị và chị L tham gia biết với nhau còn không có ai khác nữa, anh L1 chồng chị L cũng không tham gia giao dịch và cũng không chứng kiến việc hai bên giao dịch lần nào. Khi vay tiền, chị không cầm cố hay thế chấp bất cứ tài sản gì cho chị L nhưng chị có đưa cho chị L giữ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP 110042 đã điều chỉnh mang tên anh Nguyễn Minh N và chị Đồng Thị H1 để làm tin. Tất cả 03 khoản vay trên, chị đều đã thanh toán cho chị L thông qua chuyển khoản tại ngân hàng V. Chị chuyển làm nhiều đợt trong tháng 8, tháng 9, tháng 10 năm 2022, mỗi lần bao nhiêu chị không nhớ rõ, chị chỉ nhớ là đã trả hết tiền nợ chị L. Ngoài 03 lần vay nói trên, chị không vay bất kỳ khoản vay nào của chị L trong năm 2022.

Chị đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn ô, TT Vôi, huyện L, tỉnh Bắc Giang, nhưng chị đã bán nhà ở thôn ô vào đầu năm 2023, chị và anh N chỉ còn 01 ngôi nhà duy nhất ở thôn A, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Từ tháng 2/2023 đến tháng 5/2023, chị không có mặt ở TT Vôi và ở xã H, huyện L mà chị ở thành phố V (ở nhà người em họ, địa chỉ chính xác chị không nhớ rõ).

Chị biết được việc chị L kiện chị là do anh N nói chuyện với chị Đ- chị dâu của chị (Vũ Thị Đ1, sinh năm 1975, địa chỉ: thôn V, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang) và chị Đ1 đã nói lại cho chị biết nên chị đã về tham dự phiên tòa xét xử vào ngày 18/5/2023. Tại phiên tòa, chị đã cung cấp các bản sao kê những lần chị chuyển khoản cho chị L tại ngân hàng V1.

Nay, chị L khởi kiện chị và anh N ra Tòa đòi số tiền 1.600.000.000 đồng và lãi suất thì chị không đồng ý vì các khoản nợ gốc và nợ lãi chị đều đã trả xong cho chị L.

Anh N khởi kiện chị L đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chị đồng ý với việc khởi kiện của anh N. Chị đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án.

Việc chị vay tiền của chị L, anh N hoàn toàn không biết và chị cũng không nói gì với anh N. Chị vay tiền của chị L là để cho người khác vay, người khác đã trả tiền chị nên chị cũng đã trả đầy đủ cho chị L.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan - anh Nguyễn Minh N trình bày: việc vợ anh là chị H1 vay tiền của chị L như thế nào anh không được biết. Chị H1 vay của chị L bao nhiêu, vay từ bao giờ, để làm gì anh đều không nắm được. Ngày 24/01/2023, anh có nghe tin chị H1 vay tiền của chị L thì anh có hỏi trực tiếp chị L. Chị L cho anh biết là H1 có vay số tiền là 2.800.000.000 đồng, sau chị L lại nói là chị H1 vay 2.200.000.000 đồng, mấy ngày sau chị L lại nói là chị H1 vay số tiền 2.450.000.000 đồng. Khi đó, anh có hỏi vay có giấy tờ gì không thì chị L trả lời là không có giấy tờ gì. Chị H1 vay tiền để sử dụng vào việc gì anh không hề biết. Nay chị L khởi kiện yêu cầu vợ chồng anh trả số tiền nợ 2.450.000.000 đồng và lãi suất thì anh không đồng ý trả nợ vì anh không vay.

Anh đã ly hôn với chị H1 và Tòa án đã giải quyết xong vào ngày 08/02/2023. Khi ly hôn, anh và chị H1 chỉ yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ hôn nhân và việc nuôi con chung không yêu cầu giải quyết về tài sản chung. Lần cuối cùng anh gặp chị H1 là ngày 9/02/2023 tại ngôi nhà ở tổ dân phố Ổ, TT Vôi, huyện L (nhà vừa xây xong tháng 8/2022). Anh và chị H1 ở ngôi nhà tại Ổ từ tháng 8/2022 đến ngày 9/02/2023 thì anh và chị H1 bán nhà cho người khác. Sau khi bán nhà xong, anh và chị H1 mỗi người một nơi, không liên hệ gì với nhau nữa. Anh cũng không biết chị H1 đang ở đâu và làm gì.

Quá trình chị L cho chị H1 vay tiền, chị L có cầm giữ 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của anh và chị H1. Nay, anh yêu cầu Tòa án buộc chị L phải trả lại anh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP110042 đã điều chỉnh ngày 23/6/2013 mang tên anh Nguyễn Minh N và chị Đồng Thị H1.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - anh Hoàng Văn L1 trình bày: từ tháng 8 đến tháng 10 năm 2022, vợ chồng anh có cho chị H1 và N vay 03 lần tiền với tổng số tiền là 2.450.000.000 đồng. Chị L là người trực tiếp giao dịch và thỏa thuận với chị H1 và anh N, có 01 lần anh chứng kiến chị H1 vay tiền, số tiền mà chị L cho chị H1 và anh N vay là tiền chung của vợ chồng anh. Nay chị L khởi kiện chị H1 và anh N ra Tòa đòi số tiền nợ là 2.450.000.000 đồng và lãi suất phát sinh theo quy định của pháp luật thì anh đồng ý với quan điểm của vợ anh là chị L. Anh đề nghị Tòa án giải quyết theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng anh. Anh bận công việc nên không thể tham gia tố tụng tại Tòa án được. Anh xin vắng mặt tại các phiên hòa giải và các phiên tòa xét xử vụ án. Quan điểm trong quá trình giải quyết vụ án như thế nào của vợ anh thì anh đều đồng ý.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị L trình bày: theo đơn khởi kiện chị yêu cầu chị H1 và anh N phải trả chị số tiền 2.450.000.000 đồng và lãi phát sinh theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị thấy tại giấy biên nhận ngày 08/10/2022, số tiền 850.000.000 đồng (tám trăm năm mươi triệu đồng) chị cho chị H1 vay chưa đủ điều kiện để khởi kiện nên chị tự nguyện xin rút lại yêu cầu này và yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị H1 và anh N trả chị số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo giấy biên nhận vay tiền vào ngày 10/8/2022 và ngày 09/9/2022 với tổng số tiền 584.600.000 đồng và lãi suất 10%/năm theo quy định của pháp luật và chị đồng ý trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho chị H1 và anh N khi chị H1 thanh toán xong tiền nợ cho chị.

Tại phiên tòa sơ thẩm, anh N không đồng ý trả chị L số tiền 584.600.000 đồng và lãi suất và anh yêu cầu chị L phải trả lại anh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Với nội dung trên, bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS - ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang đã căn cứ Điều 105, Điều 106, Điều 115, Điều 166, Điều 357, Điều 463, Điều 466, Điều 468, Điều 469 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị L, buộc chị Đồng Thị H1 phải thanh toán trả vợ chồng chị Nguyễn Thị L số tiền nợ gốc là 584.600.000 đồng và số tiền nợ lãi là 58.453.000 đồng. Tổng cộng: 643.053.000 đồng (Sáu trăm bốn mươi ba triệu không trăm năm mươi ba nghìn đồng) Buộc chị Nguyễn Thị L trả lại anh Nguyễn Minh N 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BP110042 đã điều chỉnh ngày 23/6/2022 mang tên anh Nguyễn Minh N và chị Đồng Thị H1 theo hồ sơ số 07405-TA-105 (tr105.2022) 2. Đình chỉ yêu cầu khởi của chị Nguyễn Thị L đối với chị Đồng Thị H1 về khoản vay 850.000.000 đồng ngày 08/10/2022.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, lãi suất chậm trả, quyền thi hành án và quyền kháng cáo cho các bên đương sự.

Ngày 22/8/2023, bị đơn chị H1 kháng cáo đề nghị sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 40/2023/DS-ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn chị L giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn chị H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Luật sư C bảo vệ cho chị H1 trình bày quan điểm: kháng cáo của chị H1 có căn cứ dựa trên các bản sao kê vay tiền, trả tiền giữa hai bên do các đương sự cung cấp, Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét nên không khách quan. Theo các sao kê của chị H1 cung cấp thì chị H1 đã thanh toán trả xong 02 khoản vay chị L khởi kiện vì hai bên vay, trả không ghi số tiền trả cho khoản vay nào. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 308 BLTTDS, chấp nhận kháng cáo của chị H1, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L.

Luật sư T bảo vệ cho chị L trình bày quan điểm: kháng cáo của chị H1 không có căn cứ, chị L khởi kiện chị H1 và cung cấp đầy đủ các tài liệu, chứng cứ chứng minh giữa chị H1 và chị L có nhiều quan hệ vay mượn tiền với hai hình thức là chuyển khoản và tiền mặt. Do chị H1 vắng mặt tại địa phương nên hai bên chưa chốt tổng nợ. Vì vậy để bảo vệ quyền lợi của mình chị L đã khởi kiện chị H1 theo các giấy biên nhận vay tiền hai bên đã ký. Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS không chấp nhận kháng cáo của chị H1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Chị L nhất trí ý kiến của Luật sư T, không bổ sung gì thêm.

Tham gia phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến khi mở phiên tòa và tại phiên tòa, Thư ký, HĐXX đã thực hiện đúng, đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Sau khi xem xét yêu cầu kháng cáo của chị Đồng Thị H1, đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 308 BLTTDS giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Chị H1 phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: tại phiên tòa phúc thẩm việc vắng mặt lần thứ hai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo gồm: anh Nguyễn Minh N, anh Hoàng Văn L1 không có lý do, chị H1 có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa ngày 02/02/2024. HĐXX căn cứ khoản 2, khoản 3 Điều 296 của BLTTDS để tiếp tục xét xử vụ án.

[2]. Xét nội dung vụ án, HĐXX thấy: căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ, diễn biến tại phiên tòa có căn cứ xác định: ngày 10/8/2022, chị H1 có vay của chị L số tiền là 600.000.000 đồng (sáu trăm triệu đồng) và 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng) vào ngày 09/9/2022. Khi vay tiền các bên giao nhận tiền trực tiếp với nhau, có lập giấy biên nhận, không thỏa thuận về lãi suất và thời hạn trả tiền. Như vậy, giữa chị L và chị H1 đã xác lập quan hệ hợp đồng vay tài sản theo quy định tại Điều 463 và khoản 2 Điều 469 Bộ luật Dân sự. Đến nay, chị H1 đã thanh toán xong cho chị L tiền lãi tháng 8 và tháng 9/2022 (theo chị L thừa nhận).

Về nghĩa vụ thanh toán: căn cứ vào sổ nợ chi tiết kiệm báo nợ, báo có của ngân hàng M và các lời khai của nguyên đơn và bị đơn thấy: ngày 09/8/2022, chị L cho chị H1 vay tổng số tiền là 485.000.000 đồng thông qua chuyển khoản, lần 1: chuyển 185.000.000 đồng, lần 2: chuyển 100.000.000 đồng, lần 3: chuyển 200.000.000 đồng. Hai bên không lập giấy biên nhận vay tiền, không thỏa thuận về thời hạn thanh toán nhưng có thỏa thuận miệng là chị H1 phải chịu mức lãi suất là 1.000 đồng/1 triệu/01 ngày. Đến ngày 10/8/2022, chị L lại tiếp tục cho chị H1 vay 02 lần tiền, lần 1: chuyển khoản 400.000.000 đồng, không lập giấy biên nhận vay tiền, không thỏa thuận về thời hạn thanh toán nhưng có thỏa thuận miệng là chị H1 phải chịu mức lãi suất là 1.000 đồng/1 triệu/01 ngày; lần thứ hai chị cho chị H1 vay 600.000.000 đồng bằng tiền mặt, có lập giấy biên nhận vay tiền (khoản vay này chị H1 chưa thanh toán cho chị cả gốc và lãi nên chị khởi kiện).

Từ ngày 24/8/2022 đến ngày 07/9/2022, chị H1 chuyển trả cho L2 10 lần với tổng số tiền là 950.400.000 đồng. Chị L cho rằng số tiền này chị H1 vào khoản vay ngày 09/8/2022 là 485.000.000 đồng và khoản vay chuyển khoản ngày 10/8/2022 là 400.000.000 đồng, số tiền dư là 65.400.000 đồng là chị H1 trả lãi cho 02 khoản vay nói trên và một số khoản vay khác chị L không nhớ được cụ thể. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định khoản nợ 600.000.000 đồng chị H1 vay của chị L bằng tiền mặt ngày 10/8/2022 chưa được chị H1 trả chị L. Vì vậy, chị H1 phải có trách nhiệm trả chị L là hoàn toàn có phù hợp với các quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 468 và khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự.

Đối với số tiền 1.000.000.000 đồng, chị H1 vay của chị L vào ngày 09/9/2022. Chị L xác định từ ngày 23/9/2022 đến ngày 05/10/2022, chị H1 10 lần chuyển trả tiền chị L với tổng số tiền là 950.000.000 đồng. Như vậy, chị H1 đã trả xong cho chị L là 950.000.000 đồng còn nợ lại chị L 50.000.000 đồng. Vì vậy, chị H1 phải có trách nhiệm trả chị L số tiền còn nợ là 50.000.000 đồng theo quy định tại Điều 463, Điều 466, Điều 468 và khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự.

Đối với số tiền dư 65.400.000 đồng, chị H1 trả cho chị L thông qua chuyển khoản vào các khoản nợ chuyển khoản ngày 09/8/2022 và ngày 10/8/2022 của chị H1. Tòa án sơ thẩm xác định đây là số tiền chị H1 trả vào tiền nợ gốc của khoản vay 600.000.000 đồng mà chị H1 phải trả cho chị L là có căn cứ.

Về lãi suất và thời hạn tính lãi suất: khi vay tiền các bên có lập giấy biên nhận vay tiền, nhưng không ghi rõ đến khi nào trả. Lãi suất thỏa thuận miệng là 1.000 đồng/01 triệu/tháng. HĐXX xác định, Tòa án cấp sơ thẩm xác định đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn và có lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 469 Bộ luật dân sự, nguyên đơn yêu cầu tính lãi theo mức lãi suất 10%/tháng đối với các khoản vay ngày 10/8/2022 và khoản vay ngày 09/9/2022 là có căn cứ.

Từ những nhận định trên, HĐXX thấy: Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cần buộc chị Đồng Thị H1 phải trả cho chị Nguyễn Thị L số tiền gốc vay còn nợ là 584.600.000 đồng và số tiền lãi phát sinh của khoản vay ngày 10/8/2022 được tính lãi từ ngày 10/8/2022 đến khi tòa án xét xử sơ thẩm và khoản vay ngày 09/9/2022 được tính lãi từ ngày 09/9/2022 đến khi tòa án xét xử sơ thẩm là có căn cứ.

[3]. Xét kháng cáo của chị Đồng Thị H1 cho rằng hiện đà trả hết chị L số tiền vay trên, tại phiên tòa phúc thẩm chị H1 không cung cấp được chứng cứ nào mới chứng minh cho kháng cáo của chị nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của chị H1.

[4]. Về án phí dân sự phúc thẩm: chị Đồng Thị H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét..

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 313 của Bộ luật tố tụng dân sự, xử: không chấp nhận kháng cáo của chị Đồng Thị H1, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 40/2023/DS - ST ngày 14/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: chị Đồng Thị H1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0005673 ngày 22/8/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lạng Giang.

Án xử phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 27/2024/DS-PT

Số hiệu:27/2024/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về