Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 27/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ LONG MỸ, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 27/2022/DS-ST NGÀY 19/05/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 31/2022/TLST-DS ngày 30 tháng 3 năm 2022 về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST–DS ngày 05 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị V, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Khu vực T, phường B thị xã L, tỉnh Hậu Giang.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Lệ T, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Ấp 8, xã L, thị xã L, tỉnh Hậu Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị V trình bày:

Ngày 22/3/2018 bà V có cho bà Nguyễn Thị Lệ T vay số tiền 40.000.000 đồng, thỏa thuận lãi suất 30.000đồng/1.000.000đồng/tháng, khi vay có lập biên nhận nợ nội dung cho mượn tiền để làm ăn nhưng thực chất là vay tiền. Bà T có hứa đến ngày 22/7/2018 sẽ trả lại đủ số tiền trên. Sau khi vay tiền thì bà T không đóng lãi cũng không trả vốn do đó bà V yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà T trả cho lại số tiền vốn vay là 40.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn Thị Lệ T trình bày: Trước đây bà T có nhờ bà Th là chỗ quen biết với bà T (hiện bà Th đã chết) vay tiền giùm sau đó mới biết là tiền của bà V. Ngày 22/3/2018 bà V có kêu bà T đến nhà và viết biên nhận nợ với số tiền 40.000.000 đồng. Bà T thống nhất trả cho bà V số tiền 40.000.000 đồng. Tuy nhiên, do hiện tại hoàn cảnh khó khăn nên xin trả dần, mỗi tháng sẽ trả cho bà V số tiền từ 400.000 đồng đến 1.500.000 đồng đến khi hết nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ đã thể hiện trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, tranh luận tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại Tòa án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Nguyên đơn khởi kiện bị đơn yêu cầu trả số tiền vay theo biên nhận nợ. Bị đơn thừa nhận có vay của nguyên đơn. Do đó, đây là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Về nội dung: Ngày 22/3/2018 nguyên đơn có cho bị đơn vay số tiền 40.000.000 đồng, bị đơn thừa nhận có viết và ký tên vào biên nhận nợ đề ngày 22/3/2018 do nguyên đơn cung cấp. Đây là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bị đơn trả lại số tiền 40.000.000 đồng là có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận. Tại phiên tòa các đương sự chưa thống nhất được phương án trả nợ, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số tiền 40.000.000 đồng một lần khi bản án có hiệu lực pháp luật. Bị đơn yêu cầu được trả dần mỗi tháng trả từ 400.000 đồng đến 1.500.000 đồng cho đến khi hết nợ. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 466 Bộ luật dân sự về nghĩa vụ trả nợ của bên vay: “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Bị đơn đã thỏa thuận vay tiền của nguyên đơn thì phải có nghĩa vụ trả lại số đã tiền đã vay, việc kéo dài nghĩa vụ trả nợ của bị đơn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nguyên đơn là không có cơ sở để xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ và Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án bị đơn phải chịu số tiền án phí là 40.000.000 đồng x 5% = 2.000.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 3 Điều 26; Điều 35; Điều 92; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Điều 463; Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015.

- Khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị V.

2. Buộc bị đơn Nguyễn Thị Lệ T có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn Nguyễn Thị V số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của nguyên đơn Nguyễn Thị V, nếu bị đơn Nguyễn Thị Lệ T chậm trả số tiền nêu trên, thì phải chịu lãi chậm trả tương ứng với số tiền chậm trả và thời gian chậm trả. Lãi suất chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên, nhưng không được vượt quá mức lãi suất theo quy định tại khoản 1 Điều 468, nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn Nguyễn Thị Lệ T phải nộp án phí là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Nguyên đơn Nguyễn Thị V được nhận lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) theo biên lai thu số 0004185 ngày 30/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải chịu thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 27/2022/DS-ST

Số hiệu:27/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Long Mỹ - Hậu Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về