TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH HÓA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 18/2022/DS-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 08 và ngày 12/4/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/2022/TLST - DS ngày 22/02/2022 về tranh chấp “hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 23/2022/QĐXXST - DS ngày 25/3/2022 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà ĐTV, sinh năm 1970 Địa chỉ: Ấp ĐH, xã TĐ, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.
2. Bị đơn:
- Ông TNTL, sinh năm 1975 - Bà NNT, sinh năm 1975 Cùng địa chỉ: Ấp ĐH, xã TĐ, huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An.
(Bà V có mặt; bà T và ông L có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Trong đơn khởi kiện cũng như lời trình bày tại phiên Tòa, nguyên đơn bà ĐTV trình bày yêu cầu khởi kiện: Năm 2021, bà V cho ông L và bà Thủy vay nhiều lần, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Ngày 20/9/2021, bà V cho ông L và bà T là vợ chồng vay 290.000.000đ, thời hạn vay đến ngày 9/11/2021, lãi suất 1%/tháng. Đến hạn trả nợ, ông L và bà T không trả gốc và lãi cho bà V nên bà V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông L và bà T liên đới trả 290.000.000đ gốc và lãi suất tính từ 20/9/2021 đến 20/01/2022 là 04 tháng, thành tiền 11.600.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T trả là 301.600.000đ.
Lần thứ hai: Ngày 04/11/2021, bà V cho ông L và bà T là vợ chồng vay 108.000.000đ, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất 1%/tháng. Đến hạn trả nợ, ông L và bà T không trả gốc và lãi cho bà V nên bà V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông L và bà T liên đới trả 108.000.000đ gốc và lãi suất tính từ 04/11/2021 đến 04/01/2022 là 02 tháng, thành tiền 2.160.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T trả là 110.160.000đ.
Lần thứ ba: Ngày 10/11/2021, bà V cho ông L và bà T là vợ chồng vay 110.000.000đ, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất 1%/tháng. Đến hạn trả nợ, ông L và bà T không trả gốc và lãi cho bà V nên bà V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông L và bà T liên đới trả 110.000.000đ gốc và lãi suất tính từ 10/11/2021 đến 10/01/2022 là 02 tháng, thành tiền 2.200.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T trả là 112.200.000đ.
Lần thứ tư: Ngày 30/11/2021, bà V cho ông L và bà T là vợ chồng vay 280.000.000đ, thời hạn vay 01 tháng, lãi suất 1%/tháng. Đến hạn trả nợ, ông L và bà T không trả gốc và lãi cho bà V nên bà V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông L và bà T liên đới trả 280.000.000đ gốc và lãi suất tính từ 30/11/2021đến 30/01/2022 là 02 tháng, thành tiền 5.600.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T trả là 285.600.000đ.
Như vậy, tổng cộng gốc của bốn lần vay 290.000.000đ + 108.000.000đ + 110.000.000đ + 280.000.000đ = 788.000.000đ; lãi suất của bốn lần vay 11.600.000đ + 2.160.000đ + 2.200.000đ + 5.600.000đ = 21.560.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T liên đới trả cho bà V là 809.560.000đ. Trong quá trình giải quyết vụ án bà V cung cấp: Hợp đồng vay tiền ngày 20/9/2021; hợp đồng vay tiền ngày 04/11/2021; hợp đồng vay tiền ngày 10/11/2021; hợp đồng vay tiền ngày 30/11/2021 (Tất cả bản chính).
- Bị đơn bà NNT trình bày: Bà T và ông L là vợ chồng hiện đang sống chung. Bà Thủy thừa nhận vào năm 2020 bà Thủy vay của bà Vui 170.000.000đ cũng như từ năm 2018 đến năm 2021 bà T có làm chủ nhiều dây hụi có bà V tham gia với tư cách là hụi viên và bà T còn nợ lại bà V 508.000.000đ tiền hụi. Tổng cộng số tiền vay và hụi, bà T nợ bà V là 678.000.000đ. Nay, bà V khởi kiện yêu cầu bà T và ông L liên đới trả tổng cộng gốc và lãi của 04 lần vay là 809.560.000đ thì bà T không đồng ý. Bà Thủy chỉ đồng ý một mình bà Thủy trả tổng cộng tiền vay và hụi là 678.000.000đ nhưng do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn xin trả dần mỗi tháng 500.000đ cho đến khi hết nợ. Bà T thừa nhận chữ ký và viết họ tên NNT vào các hợp đồng vay tiền ngày 20/9/2021, hợp đồng vay tiền ngày 04/11/2021, hợp đồng vay tiền ngày 10/11/2021, hợp đồng vay tiền ngày 30/11/2021 là do bà T ký và viết họ tên nhưng khi viết thì chưa đề nội dung vào các phần bỏ trống. Bốn hợp đồng vay tiền trên là kết nợ tiền hụi giữa bà T với bà V chứ không phải tiền vay. Trong quá trình giải quyết vụ án bà T cung cấp: Danh sách hụi 10.000.000đ mở vào ngày 25/02/2018 âm lịch; danh sách hụi tháng 1.000.000đ mở vào ngày 10/9/2019 âm lịch; danh sách hụi tháng 3.000.000đ mở vào ngày 29/1/2020 AL; danh sách hụi mùa 10.000.000đ mở vào ngày 20/02/2020 âm lịch; danh sách hụi tháng 3.000.000đ mở vào ngày 20/4/2020 âm lịch; danh sách hụi tháng 2.000.000 mở vào ngày 7/6/2020 âm lịch; danh sách hụi tháng 5.000.000đ mở vào ngày 09/8/2020 âm lịch; danh sách hụi tháng 3.000.000đ mở vào ngày 17/9/2020 âm lịch; danh sách hụi tuần thứ bảy 500.000 ngày 20/11/2020; danh sách hụi tháng 3.000.000đ mở vào ngày 30/11/2020 âm lịch; danh sách hụi tháng 5.000.000đ mở ngày 26/12/2020 âm lịch; danh sách hụi tuần thứ 7 (2.000.000đ) mở ngày 09/01/2021 âm lịch; danh sách hụi 1.000.000đ mở ngày 25/01/2021 (Tất cả bản phô tô).
- Bị đơn, ông TNTL vắng mặt tại các phiên hòa giải nhưng tại phiên Tòa trình bày: Ông L và bà T là vợ chồng, hiện đang sống chung. Nay, bà V khởi kiện yêu cầu bà T và ông L liên đới trả tổng cộng gốc và lãi của bốn lần vay là 809.560.000đ thì ông L không đồng ý. Ông L chỉ đồng ý cùng bà T trả tổng cộng tiền vay và hụi là 678.000.000đ nhưng do ông L nợ Ngân hàng và nhiều người khác, khi nào ông L trả hết nợ cho Ngân hàng và những người khác thì mới trả cho bà V. Trong quá trình giải quyết vụ án ông L không cung cấp cho Tòa án tài liệu hay chứng cứ gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ, vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Tòa án nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết: Xét quan hệ tranh chấp là tranh chấp là hợp đồng vay tài sản chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự nên theo quy định tại các Điều 26, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Hóa.
[2] Về nội dung yêu cầu khởi kiện của bà ĐTV: Bà V khởi kiện yêu cầu bà T và ông L liên đới trả bốn lần tiền vay gốc với số tiền 788.000.000đ và lãi suất của bốn lần vay là 21.560.000đ. Tổng cộng gốc và lãi mà bà V yêu cầu ông L và bà T liên đới trả cho bà V là 809.560.000đ thì bà T không đồng ý. Bà T chỉ đồng ý một mình bà T trả tổng cộng tiền vay và hụi là 678.000.000đ cho bà V và mỗi tháng trả 500.000đ cho đến khi hết nợ. Bà T cho rằng bà T chỉ vay của bà V 170.000.000đ và còn nợ hụi bà V là 508.000.000đ. Tổng cộng số tiền vay bà hụi, bà T nợ bà V là 678.000.000đ được bà V thừa nhận nhưng bà V cho rằng dây là mối quan hệ khác, bà V không khởi kiện về tranh chấp hụi và số tiền vay 170.000.000đ trong vụ án này. Bà V chỉ tranh chấp và khởi kiện bà T và ông L bốn lần vay với tổng số tiền nợ gốc và lãi là 809.560.000đ. Bà T cho rằng các giấy vay mà bà T ký tên với bà V là giấy kết nợ hụi là không có căn cứ, bởi vì: Căn cứ vào các hợp đồng vay tiền ngày 20/9/2021, hợp đồng vay tiền ngày 04/11/2021, hợp đồng vay tiền ngày 10/11/2021, hợp đồng vay tiền ngày 30/11/2021 thể hiện tên tiêu đề là hợp đồng vay tài sản được đánh máy thể hiện rõ ràng bên cho vay và bên vay. Bà T biết đọc, biết viết và việc bà T ký tên cũng như ghi họ tên vào các hợp đồng vay vào các ngày khác nhau nên không thể là giấy kết nợ hụi như bà T trình bày mà phải là hợp đồng vay tài sản riêng biệt như lời trình bày của bà V. Do đó bà T phải có nghĩa vụ trả gốc và lãi suất được ghi trong bốn hợp đồng vay tài sản trên.
[3] Về nghĩa vụ liên đới: Bà V yêu cầu bà T cùng chồng bà T là ông L liên đới trả nợ vay thì bà T và ông L không đồng ý. Bà T cho rằng bà T không vay bốn lần vay như bà V trình bày. Việc bà T mở hụi chỉ có một mình bà T biết, không liên quan gì tới ông L. Do bà T và ông L là vợ chồng hiện đang sống chung, mục đích của việc vay tiền là để làm ăn phát triển kinh tế gia đình nên ông L phải có nghĩa vụ liên đới cùng bà T trả bốn lần vay cho bà V.
[4] Về thời gian tính lãi, mức lãi suất: Bà ĐTV yêu cầu tính lãi với mức lãi suất 1%/tháng là đúng như mức thỏa thuận lãi suất của các lần vay được ghi trong hợp đồng vay tiền. Về thời gian tính lãi của từng lần vay lần lượt 04 tháng, 02 tháng, 02 tháng, 02 tháng là trong khoảng thời gian bà T vi phạm thời hạn trả nợ gốc cho bà V là phù hợp với Điều 440 và 468 Bộ luật dân sự nên bà T và ông L phải có nghĩa vụ trả lãi suất cho bà V như mức lãi suất và thời gian tính lãi theo yêu cầu của bà V.
Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà ĐTV đối với bà NNT và ông TNTL.
[5]Về án phí: Bà NNT và ông TNTL phải chịu 36.000.000đ + (9.560.000đ x 3%) = 36.286.800đ tiền án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước. Bà ĐTV không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà V 18.143.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0010887 ngày 22/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Hóa.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 26, 35, 39 và Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 463, 466, 468 Điều 357 và Điều 288 của Bộ luật dân sự; Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà ĐTV đối với bà NNT và ông TNTL.
Buộc bà NNT và ông TNTL có nghĩa vụ liên đới trả cho bà ĐTV 788.000.000đ tiền gốc và 21.560.000đ tiền lãi, tổng cộng gốc và lãi là 809.560.000đ (Tám trăm lẻ chín triệu năm trăm sáu mươi nghìn đồng) phát sinh từ tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Về án phí: Bà NNT cùng ông TNTL phải chịu 36.286.800đ (Ba mươi sáu triệu hai trăm tám mươi sáu nghìn tám trăm đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm sung vào công quỹ Nhà nước. Bà ĐTV không phải chịu án phí, hoàn trả cho bà V 18.143.000đ (Mười tám triệu một trăm bốn mươi ba nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0010887 ngày 22/02/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thạnh Hóa.
Án xử sơ thẩm công khai, báo cho nguyên đơn biết được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 18/2022/DS-ST
Số hiệu: | 18/2022/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Hóa - Long An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về