Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 14/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 14/2020/DS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN VÀ NGHĨA VỤ THANH TOÁN TIỀN TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN

Trong ngày 30 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2020/TLST-DS ngày 08 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “ Hợp đồng vay tài sản và yêu cầu về nghĩa vụ trả tiền mua hàng, trong hợp đồng mua bán” theo Quết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2020/QĐXX- ST ngày 08/12/2020 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Th, sinh năm 1971.

Nơi cư trú: Thôn An Đ xã H ( Tên cũ là xã Đ G), huyện Đông Hưng, Thái Bình.

( Có mặt tại phiên toà)

* Bị đơn: Bà Lại Thị Qu, sinh năm 1971.

Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ , huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

( Bà Q có đơn xin vắng mặt )

* Người có Quyền lợi liên quan: Ông Bùi Duy Th, sinh năm 1973.

Nơi cư trú: Thôn A, xã H, huyện Đông Hưng, Thái Bình.

( Ông Th có mặt tại phiên toà) - Ông Bùi Duy Th là chồng bà Th, ông Th uỷ Quền cho bà Th tham gia tố tụng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/5/2020 và các lời khai tại Toà án, Nguyên đơn bà Th trình bày:

Từ năm 2017 đến tháng 05/2018 Bà Phạm Thị Th có bán thóc cho bà Lại Thị Qu hai lần với tổng cộng số tiền là: 53.495.000 đồng đến nay bà Qu chưa trả toàn bộ số tiền trên.

Ngày 10/02/2017 Bà Phạm Thị Thcó cho bà Lại Thị Qu vay số tiền 100.000.000 đồng với lãi suất 1%/ tháng ( có biên nhận vay nợ), đến nay bà Qu cũng chưa trả toàn bộ số tiền trên.

Tổng số tiền mua thóc và tiền vay là: 153.495.000 đồng. Bà Th nhiều lần yêu cầu bà Qu trả tiền mua thóc và tiền bà Qu vay nhưng đến nay bà Qu không trả cho bà Th được đồng nào.

Nay bà Th yêu cầu bà Qu trả cho bà Th: Tổng số tiền mua thóc và tiền gốc bà Qu vay là 153.495.000 đồng. Bà Th không yêu cầu bà Qu phải trả lãi.

.+ Bị đơn bà Qu trình bày:

Bà đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và được Toà án công khai chứng cứ gồm: Đơn khởi kiện và các chứng cứ do bà Th cung cấp. Trong bản tự khai mặc dù đã giải thích nhưng bà Qu chỉ khai: Bà Qu có đong thóc của bà Th số tiền đong thóc bà Th chưa lấy và bà Th có cho bà Qu vay tiền, bà Qu trả bà Th lãi suất vay là 1%/ tháng .

Khoản tháng 7/2018 bà Qu trả bà Th 80.000.000 đồng nhưng bà Th không lấy, bà Th yêu cầu bà Qu phải trả toàn bộ bà Th mới nhận tiền bà Qu trả.

Tại phiên toà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng có quan điểm:

Về tố tụng:

Trong quá trình giải Quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm, Hội đồng xét xử sơ thẩm, những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng và đầy đủ các Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Qu có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

Về nội dung:

Bà Th khởi kiện bà đã cung cấp các chứng cứ, cùng với việc Toà án tiến hành thu thập chứng cứ tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng, đã có đủ cơ sở khẳng định bà Qu đã đong thóc và vay tiền của bà Th, ông Th cụ thể:

Tại giấy nhận nợ ngày 01/01/2018 ( âm lịch) có ghi Qu Thăng Đông Vinh nợ Th Th 42.600.000đồng ( chỉ có bà Qu ký).

Tại giấy nhận nợ cũng ngày 01/01/2018 ( âm lịch) có ghi Qu Thăng Đông Vinh vay Th Thăng 100.000.000đồng ( chỉ có bà Qu ký).

Tại giấy nhận nợ ngày 17/7/2018 ( âm lịch) có ghi Qu nợ Th 10.895.000đồng; Tổng số tiền theo giấy biên nhận cả 3 lần là 153.495.000 đồng.

Cần buộc bà Qu trả cho bà Th và ông Th số tiền 153.495.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

I/ Về tố tụng

Bà Qu có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Toà án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

II/ Về nội dung:

[1] Bà Qu khi Toà án triệu tập để tham gia phiên họp để tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải bà đều vắng mặt. Khi bà Qu đến Toà án tham gia một vụ kiện khác, Toà án đã thông báo và hướng dẫn bà Qu khai về việc nợ tiền mua thóc của bà Th và tiền vay nợ của bà Th, nhưng bà Qu không khai rõ đến nay bà Qu còn nợ bà Th là bao nhiêu, bà Qu chỉ nói có lần trả bà Th 80 triệu đồng bà Th không nhận vì lí do bà Th yêu cầu phải trả toàn bộ số nợ bà Th mới nhận. Bà có ý kiến xin được vắng mặt khi hoà giải.

Điều này chứng tỏ bà Qu có nợ bà Th, Th và số nợ với số tiền lớn hơn 80 triệu đồng.

[2] Qua xem xét các chứng cứ bà Th nộp tại Toà án thấy:

Tại giấy nhận nợ ngày 01/01/2018 ( âm lịch) có ghi Qu Th Đông Vinh nợ Th Th 42.600.000đồng ( chỉ có bà Qu ký).

Tại giấy nhận nợ cũng ngày 01/01/2018 ( âm lịch) có ghi Qu Th Đông Vinh vay Th Thăng 100.000.000đồng ( chỉ có bà Qu ký).

Tại giấy nhận nợ ngày 17/7/2018 ( âm lịch) có ghi Qu nợ Th 10.895.000đồng; Tổng số tiền theo giấy biên nhận cả 3 lần là 153.495.000 đồng.

Các chứng mà bà Th cung cấp phù hợp với lời khai của bà Qu tại Công an huyện Đông Hưng (khi bà Qu không trả tiền cho bà Th thì bà Th đã làm đơn tố cáo bà Qu có hành vi lừa đảo. Công an huyện Đông Hưng đã thụ lí đơn trình báo và giải Quết. Sau khi thụ lý đơn tố cáo Công an guyện Đông Hưng đã có văn bản kết luận việc việc mua bán thóc nợ tiền và việc vay tiền giữa bà Th và bà Qu là quan hệ dân sự. Do đó Công an huyện Đông Hưng không khởi tố vụ án hình sự (Quết định giải Quết khiếu nại số 13/QĐ-ĐT ngày 21/01/2020) Như vậy có đủ cơ sở kết luận việc bà Qu còn nợ bà Th số tiền 153.495.000 đồng gồm: Tiền bà Qu đong thóc của bà Th bà Qu chưa trả tiền và số tiền bà Qu vay của bà Th là đúng sự thật. Cần buộc bà Qu phải có nghĩa vụ trả số tiền trên cho bà Th. Về lãi suất bà Th không yêu cầu nên không đặt ra giải Quết.

[3] Số tiền 153.495.000 đồng gồm: Tiền bà Qu đong thóc của bà Th bà Qu chưa trả tiền và số tiền bà Qu vay của bà Th đây là tài sản chung của vợ chồng bà Th và ông Th. Do đó cần buộc bà Qu phải có nghĩa vụ trả nợ cho bà Th và Ông Th.

[4] Trong vụ án này quan hệ pháp luật có tranh chấp gồm hai quan hệ pháp luật đó là: Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản và yêu cầu về nghĩa vụ trả tiền mua hàng, trong hợp đồng mua bán.

- Về việc trong Giấy biên nhận có ghi Th Thăng (ông Thăng là chồng bà Th) .Do không có chữ ký của ông Thăng trong giấy biên nhận. Căn cứa vào Điều 101 của Bộ luật dân sự, Qu định về thành viên hộ gia đình trong giao dịch dân sự để xác định nghĩa vụ , thì nghĩa vụ trả nợ hoàn toàn thuộc bà Qu. Do đó Toà án không đưa ông Thăng vào tham gia tố tụng.

[5] Về án phí:

Bà Qu phải chịu tiền án phí dân sư là 153.495.000 đồng x 5% = 7.674.000 đồng ( làm tròn số) Số tiền bà Th nộp tiền tạm ứng án phí cần hoàn lại cho bà Th.

[6] Về Quyền kháng cáo: Các đương sự có Quền kháng cáo bản án sơ thẩm theo Qu đinh.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 101; 430, 440, 463, 466 của Bộ luật dân sự và Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Th về việc: “ Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản và yêu cầu về nghĩa vụ trả tiền mua hàng, trong hợp đồng mua bán”

Xử: Buộc bà Lại Thị Qu phải có nghĩa vụ trả cho vợ, chồng Bà Phạm Thị Th và ông Bùi Duy Th gồm: Tiền bà Qu vay tiền của bà Th, ông Th số tiền 100.000.000 đồng và tiền bà Qu mua thóc của bà Th, ông Th bà Qu chưa trả là 53.495.000 đồng. Tổng hai khoản bà Qu phải trả cho bà Th và ông Th là 153.495.000 đồng

[2] Kể từ ngày bà Th ông Th có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Qu chậm thi hành án khoản tiền 153.495.000 đồng thì bà Qu phải chịu lãi suất đối với khoản tiền phải thi hành án, theo Quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự, tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

[3] Về án phí:

Căn cứ Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bà Lại Thị Qu phải chịu 7.674.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà Th số tiền 3.800.000đ mà bà Th đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai số 0006400 ngày 08/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng thành khoản thi hành án phí.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo Quy định tại Điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có Quyền thỏa thuận thi hành án, Quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo Quy định tại các Điều 6,7,9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện Quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[4] Về Quyền kháng cáo: Báo cho các đương sự biết, các đương sự có Quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, đối với người có mặt tại phiên toà kể từ ngày tuyên án, đối với người vắng mặt tại phiên toà kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 14/2020/DS-ST

Số hiệu:14/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về