Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 13/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỌ XUÂN, TỈNH T

 BẢN ÁN 13/2023/DS-ST NGÀY 06/04/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 64 /2022/TLST- DS ngày 05 tháng 12 năm 2022 về việc: Tranh chấp hơp đồng vay tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/ 2023/QĐXX-ST ngày 27 tháng 02 năm 2022, Quyết định hoãn pH1 tòa số 06/2023/QĐST-DSST ngày 14/3/2023, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn:

- Bà Lê Thị H1 - Sinh năm 1949;

Nơi ĐKHKTT: phòng 908 Nơ 4A Bán Đảo Linh Đàm, phường H, quận H, thành phố H. Có mặt - Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H- sinh năm 1980 Nơi công tác: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện T, T.

Địa chỉ: khu 1 thị trấn T, huyện T, T. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lê Thị H1 trình bày.

Tôi và cô Nguyễn Thị H, Sinh năm 1980; Công tác tại: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện T, tỉnh T có quan hệ quen biết, là hàng xóm và đồng nghiệp cũ, nên tôi có cho cô H vay tiền, cụ thể các lần vay như sau:

Ngày 12/ 02 /2014 tôi có cho cô H vay 400.000.000đ (Bốn trăm triệu) đồng,lãi suất khi đó hai bên thỏa thuận là 2,5%/tháng. Thời hạn vay là một tháng.

Ngày 24/3/2014, cô H trả nợ cho tôi 300.000.000 đồng tiền gốc, còn nợ lại 100.000.000 đồng tiền gốc.

Ngày 20/11/2015 cô H vay của tôi số tiền 100.000.000 đồng, cộng với số tiền 100.000.000 đồng cũ nữa là 200.000.000 đồng.

Ngày 29/01/2016, cô H vay tiếp của tôi 200.000.000 đồng nữa,( trong đó tôi chuyển khoản 182.000.000 và cô H tự rút ở tài khoản của tôi 18.000.000 đồng), cộng với nợ cũ còn lại 200.000.000đ là 400.000.000 đồng. Lãi suất hai bác cháu thỏa thuận là: 2,5%/ tháng cho tất cả các khoản vay.

Quá trình vay từ ngày 24/3/2014 đến nay cô H đã trả được số tiền gốc là: Ngày 31/01/2019 cô H trả nợ được 10.000.000 đồng.

Ngày 22/01/2020 cô H trả nợ 10.000.000 đồng Ngày 28/4/2020 cô H trả nợ 1.000.000 đồng Ngày 29/9/2020 cô H trả nợ 1.000.000 đồng Tổng số tiền cô H đã trả nợ cho tôi là 22.000.000 đồng tiền gốc.

Tổng số tiền lãi cô H đã trả cho tôi từ lần vay đầu tiên, ngày 12/02/2014 đến tháng 6/2018 là: 363.000.000 đồng. Sau này do làm ăn thua lỗ nên cô H đã xin tôi không tính lãi đối với khoản nợ gốc 378.000.000đ còn lại thời điểm tháng 6/2018 và tôi đã đồng ý. Tuy nH1 từ tháng 6/2018 Tôi đã đòi nợ nhiều lần nhưng cô H không trả.

Tôi đã có thiện chí là chỉ đòi nợ cô H 178.000.000 đồng và cho số tiền 200.000.000 tiền gốc với điều kiện là cô H trả hết nợ cho tôi ngay nhưng cô H vẫn không thực hiện.

Tại pH1 tòa, bà H1 tách 18.000.000 đồng tiền gốc để giải quyết trong vụ án khác.

Nay tôi yêu cầu cô H trả tiền gốc và lãi suất, cụ thể như sau:

Từ ngày 01/7/2018 đến tháng 1/2019 =7 tháng x 382.000.000đ x 0,8% = 21.392.000 đồng.

Từ tháng 02/2019 đến tháng 1/2020 =12 tháng x 372.000.000 x 0,8% = 35.712.000 đồng. (Ngày 31/01/2019 cô H trả nợ được 10.000.000 đồng) Từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2023=37 tháng x 360.000.000x 0,8% = 106.560.000. (Từ ngày 22/01/2020 đến ngày 29/9/2020 cô H trả nợ 12.000.000 đồng) Tổng lãi phải trả: 163.664.000đ; Tổng nợ gốc: 360.000.000 = 523.664.000đ ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn ) đồng.

* Bị đơn chị H trình bày: Tôi có vay tiền và viết giấy vay tiền đưa cho bà H1, cụ thể là:

Ngày 12/ 02 /2014 tôi có vay 400.000.000đ (Bốn trăm triệu) đồng,lãi suất khi đó hai bên thỏa thuận là 2,5%/tháng. Thời hạn vay là một tháng.

Ngày 24/3/2014, tôi trả nợ cho bà H1 300.000.000 đồng tiền gốc, còn nợ lại 100.000.000 đồng tiền gốc.

Ngày 20/11/2015 tôi vay của bà H1 số tiền 100.000.000 đồng, cộng với số tiền 100.000.000 đồng cũ nữa là 200.000.000 đồng.

Ngày 29/01/2016, tôi vay tiếp của bà H1 200.000.000 đồng nữa, cộng với nợ cũ là 400.000.000 đồng. Lãi suất hai bác cháu thỏa thuận là: 2,5%/ tháng cho tất cả các khoản vay. Trong các lần vay này đều thực hiện qua chuyển khoản Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án và tại pH1 tòa hôm nay tôi đồng ý là đã nợ bà H1 các khoản nợ như bà H1 đã trình bày trên đây. Tôi không có ý kiến gì về phần nợ gốc và phần đã trả lãi cho bà H1. Tôi có ý kiến là trước đây trong các lần làm việc tại Trung tâm H giải và các lần làm việc tại Tòa án thì bà H1 nói chỉ đòi nợ tôi số tiền 178.000.000 đồng, nay tôi chỉ đồng ý trả nợ 178.000.000 đồng nhưng vì tôi đang gặp khó khăn về tài chính, làm ăn thua lỗ nên tôi chỉ xin trả nợ hàng tháng 500.000 đồng ( Năm trăm nghìn) đồng từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi trả hết số tiền nợ trên.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát:

1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán Căn cứ vào khoản 3 Điều 58 BLTTDS, ngày 13/3/2023, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T đã có công văn số 04/YC- VKSTX về việc yêu cầu Tòa án nhân đân huyện T tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm việc giải quyết vụ án có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Ngày 14/3/2023, Tòa án mở pH1 tòa nhưng bị đơn chị Nguyễn Thị H vắng mặt. TAND huyện T ra Quyết định hoãn pH1 tòa, thời gian mở lại pH1 tòa hồi 8h ngày 06/4/2023. Tuy nH1 đến trước khi mở lại pH1 tòa, Thẩm phán không thông báo bằng văn bản yêu cầu trả lời xác minh cho Kiểm sát viên và nêu rõ lý do là vi phạm Điều 22 Thông tư liên tịch 02/2016/TTLT- TANDTC- VKSNDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa Viện Kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2 .Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký pH1 tòa:

Hội đồng xét xử, Thư ký pH1 tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về việc xét xử vụ việc.

3. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.

Bị đơn vắng mặt tại pH1 tòa lần thứ nhất không có lý do.

4. Về việc giải quyết vụ án:

Tại pH1 tòa, Nguyên đơn bà Lê Thị H1 khai nhận quá trình cho bị đơn chị Nguyễn Thị H vay tiền như sau:

Lần 1: Ngày 12/02/2014, cho chị H vay số tiền 400.000.000đ, thỏa thuận trả lãi xuất 2,5%/ tháng. Lần này chị H viết giấy tay. Bà H1 giao trực tiếp bằng tiền mặt cho chị H. Đến ngày 24/3/2014 chị H đã trả nợ 300.000.000đ, còn nợ lại 100.000.000đ.

Lần 2: Ngày 20/11/2015 chị H vay thêm số tiền 100.000.000đ, tổng là 200.000.000đ, lãi xuất 2,5%/ tháng. Giấy viết tay chị H gửi bằng đường Fax cho bà H1 nhận ở Hà Nội, bà H1 chuyển tiền qua tài khoản chị H.

Lần 3: Ngày 29/01/2016 chị H vay thêm số tiền 200.000.000đ, trong đó bà H1 chuyển khoản 182.000.000 còn 18.000.000đ, chị H tự rút ở tài khoản tiền gửi của bà H1. Tổng là 400.000.000đ, lãi xuất 2,5%/tháng. Giấy viết tay chị H gửi bằng đường Fax cho bà H1 nhận ở Hà Nội, bà H1 chuyển tiền qua tài khoản chị H.

Từ ngày 31/01/2019 đến ngày 09/9/2020, chị H chuyển khoản trả cho bà H1 22.000.000đ tiền gốc. Tổng 3 lần vay là 700.000.000đ, chị H đã trả 322.000.000đ tiền gốc và 363.000.000đ tiền lãi. Còn lại nợ tiền gốc là 378.000.000đ. Tại pH1 tòa bà H1 yêu cầu chị H trả 360.000.000đ tiền gốc ( số tiền 18.000.000đ sẽ tách ra giải quyết ở vụ án khác, không yêu cầu giải quyết ở vụ án này) và tổng tiền lãi từ tháng 7/2018 đến nay( tháng 3/2023) là 163.644.000đ. Tổng là 523.644.000đ ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm bốn mươi bốn nghìn ) đồng.

Bị đơn: Tại pH1 tòa, bị đơn chị Nguyễn Thị H khai nhận quá trình vay đúng như Nguyên đơn trình bày. Do làm ăn thua lỗ, chị H xin trả tổng là 178.000.000đ sẽ trả cho bà H1 hàng tháng, mỗi tháng 500.000đ (Năm trăm nghìn) đồng.

Hai bên không thống nhất được việc trả nợ gốc và lãi.

Căn cứ các Điều 463, Điều 466 và 468 của Bộ luật Dân sự; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2014 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của bà Lê Thị H1 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản buộc chị Nguyễn Thị H có nghĩa vụ trả cho bà Lê Thị H1 số tiền nợ gốc 360.000.000 đ tiền gốc và tiền lãi theo quy định của pháp luật từ tháng 7 năm 2018 đến nay.

Về án phí: các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi ngH1 cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại pH1 tòa , căn cứ vào kết quả xét hỏi tại pH1 tòa, HĐXX nhận định [1]. Về tố tụng: Nguyên đơn bà Lê Thị H1 yêu cầu giải quyết buộc bị đơn là chị Nguyễn Thị H có nơi làm việc tại Ngân hàng Nông nghiệp và PTNT chi nhánh huyện T, tỉnh T trả nợ tiền vay, đây là tranh chấp hợp đồng dân sự. Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T.

[2]. Về quan hệ tranh chấp: Theo nguyên đơn, bà Lê Thị H1 trình bày:

Từ ngày 12/02/2014 đến ngày 29/01/2016, chị H vay của bà H1, tổng 3 lần vay là 700.000.000đ. Tính đến tháng 6/2018, chị H đã trả 300.000.000đ tiền gốc và 363.000.000đ tiền lãi cho bà H1; Còn lại nợ tiền gốc là 400.000.000đ và tiền lãi từ tháng 7/2018 đến nay. Từ năm 2019 đến năm 2020, chị H đã trả thêm được 22.000.000đ tiền gốc. Tại pH1 tòa, bà H1 tách 18.000.000 đồng tiền gốc để giải quyết trong vụ án khác và yêu cầu chị H trả tiền gốc và lãi suất, cụ thể như sau: Từ ngày 01/7/2018 đến tháng 1/2019 =7 tháng x 382.000.000đ x 0,8% = 21.392.000 đồng; Từ tháng 02/2019 đến tháng 1/2020 =12 tháng x 372.000.000 x 0,8% = 35.712.000 đồng; Từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2023=37 tháng x 360.000.000x 0,8% = 106.560.000đ.

Tổng lãi phải trả: 163.664.000đ; Tổng nợ gốc: 360.000.000 = 523.664.000đ ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn ) đồng.

Trong các buổi làm việc, và tại pH1 tòa hôm nay, chị H thừa nhận có việc vay và trả nợ đối với bà H1. Chị chỉ đồng ý trả nợ cho bà H1 với số tiền 178.000.000 đồng là số tiền hai bác cháu đã thỏa thuận trong các lần làm việc tại Tòa án. Vì vậy, xác định quan hệ pháp luật là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

[3]. Về nội dung: Tại pH1 tòa nguyên đơn bà Lê Thị H1 vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án giải quyết buộc chị H phải trả một lần cho bà số tiền gốc 360.000.000 đ và lãi suất là 0,8%/ tháng cho bà. Để chứng minh yêu cầu khởi kiện bà H1 đã cung cấp các tài liệu cho Tòa án.

Chị H nêu quan điểm chỉ xin trả cho bà H1 số tiền 178.000.000 đồng, và mối tháng chỉ trả 500.000 ( năm trăm nghìn) đồng cho đến khi hết nợ.

[4]. Hội đồng xét xử thấy rằng, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn, bà H1 xuất trình giấy vay giữa bà và chị H là có căn cứ, bởi lẽ giấy vay không bị gạch xóa mà đang còn nguyên vẹn. Còn phía chị H có nhận là có vay nợ đối với bà H1 và đã ký trong các giấy tờ thể hiện việc vay nợ đối với bà H1. Chị không có ý kiến gì về mức lãi suất đối với khoản nợ với bà H1.

Xét thấy, yêu cầu khởi kiện của bà H1 là có căn cứ thể hiện bằng giấy vay nợ có chữ ký của chị H và chị H cũng công nhận có việc vay nợ này. Nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H1.

[5]. Về lãi suất: Tại hồ sơ có trong vụ án, bà H1 yêu cầu chị H phải trả lãi số tiền lãi phát sinh từ tháng 7 năm 2018 đến nay theo mức 0,8%/ tháng, tương ứng với khoản tiền gốc vay, đây là mức lãi xuất phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

HĐXX xét thấy: chị H phải chịu trách nhiệm trả lãi đối với khoản tiền gốc theo từng giai đoạn, trong đó:

Từ ngày 01/7/2018 đến tháng 1/2019 =7 tháng x 382.000.000đ x 0,8% = 21.392.000 đồng.

Từ tháng 02/2019 đến tháng 1/2020 =12 tháng x 372.000.000 x 0,8% = 35.712.000 đồng.

Từ tháng 02/2020 đến tháng 3/2023=37 tháng x 360.000.000x 0,8% = 106.560.000.

Tổng nợ gốc: 360.000.000; Tổng lãi phải trả: 163.664.000đ = 523.664.000đ ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn ) đồng.

Áp dụng: khoản 2 Điều 155; Điều 463; Điều 466; Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 buộc chị H phải trả cho bà H1 số tiền nợ gốc 360.000.000đ tiền gốc và tiền lãi từ tháng 7 năm 2018 đến tháng 3 năm 2023 là 163.664.000 đồng. Tổng số tiền chị H phải trả cho bà H1 là: 523.664.000 ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn) đồng.

[7]. Về án phí: chị H phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ: Khoản 2 Điều 155, Điều 357; Điều 463; Điều 466; Điều 468 BLDS năm 2015;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị H1 về việc buộc chị Nguyễn Thị H phải trả số tiền gốc và tiền lãi đối với số tiền đã vay.

Buộc chị Nguyễn Thị H phải trả một lần cho bà Lê Thị H1 số tiền là:

523.664.000 đồng ( Năm trăm hai mươi ba triệu sáu trăm sáu mươi tư nghìn) đồng, trong đó: 360.000.000đ tiền gốc và 163.664.000đ tiền lãi, tính đến hết tháng 3 năm 2023.

án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

- Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, bị đơn. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 13/2023/DS-ST

Số hiệu:13/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thọ Xuân - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 06/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về