TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 13/2021/DSST NGÀY 13/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số 48/2021/TL.ST-DS ngày 14/4/2021 về việc "Tranh chấp hợp đồng vay tài sản" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2021/QĐXXST- DS ngày 24/6/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Đoàn Thị P - Sinh năm 1986 Địa chỉ: Khu 3, phường V2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
Bị đơn: Anh Lê Quang T - Sinh năm 1987 Địa chỉ: Tổ 48 (nay là tổ 29), khu 11, phường T2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ.
(Chị P và anh T đều có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn là chị Đoàn Thị P trình bày:
Chị P có mối quan hệ quen biết với anh Lê Quang T vì chị P là khách hàng vay tiền tại Ngân hàng Q nơi anh T làm việc. Ngày 17/9/2019, anh T vay chị P số tiền 320.000.000 đồng để lo việc gia đình (có viết giấy vay tiền) và hẹn đến ngày 17/9/2020 sẽ trả toàn bộ cho chị P, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng. Trong thời gian vay tiền, anh T trả lãi đầy đủ và đúng hẹn. Ngày 10/01/2020, anh T vay tiếp của chị P 290.000.000đồng, có viết giấy vay tiền và hẹn đến ngày 10/01/2020 sẽ trả tiền cho chị P, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng.
Trong quá trình vay, anh T đã trả cho chị P một phần số tiền gốc và lãi. Đến ngày 02/9/2020, chị P và anh T thống nhất chốt số nợ gốc anh T còn nợ chị P là 365.000.000đ (Ba trăm sáu mươi lăm triệu đồng). Hai bên có viết giấy cho nhau, số tiền trên hai bên chốt nợ tính vay từ ngày 25/7/2020 và anh T chưa trả lãi khoản vay này từ ngày 25/7/2020, lãi suất hai bên thỏa thuận miệng là 2,5%/tháng, không ghi thời hạn trả nợ. Từ thời điểm đó cho đến nay, chị P đòi nhiều lần nhưng anh T không trả nợ gốc và lãi cho chị. Nay chị P đề nghị Tòa án buộc anh T trả cho chị P số tiền nợ gốc là 365.000.000 đồng và số tiền lãi là 1,66%/ tháng tính từ ngày 25/7/2020 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử 13/7/2021 theo quy định của pháp luật.
*Bị đơn anh Lê Quang T trình bày: Anh T thừa nhận có quan hệ quen biết với chị P vì chị P là khách hàng vay tiền tại Ngân hàng Quân đội nơi anh T làm việc. Anh T thừa nhận việc anh có vay tiền của chị P như chị P trình bày là đúng. Trong quá trình vay tiền của chị P, anh T đã trả cả tiền gốc và lãi nhiều lần, tiền lãi là 1.000đồng đến 1.500 đồng/ 1.000.000đồng/ngày (Khoảng 3-4,5%/tháng). Đến ngày 02/9/2020, anh T và chị P đã chốt số nợ gốc còn lại 365.000.000đ (Ba trăm sáu mươi lăm triệu đồng), hai bên thỏa thuận không tính lãi nữa và chị P sẽ tạo điều kiện để anh T trả số tiền vay giữa anh T và chồng chị P là anh Phạm Anh T3 trước, sau đó mới trả đến khoản tiền anh T vay chị P.
Nay chị P khởi kiện đề nghị Tòa án buộc anh T trả cho chị p 365.000.000d và số tiền lãi là 1,66%/ tháng tính từ ngày 25/7/2020 đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử 13/7/2021. Anh T chỉ nhất trí trả cho chị P số tiền gốc 365.000.000 đồng. Còn số tiền lãi từ ngày 25/7/2020 đến ngày xét xử 13/7/2021, anh T xin chị P không tính nữa, nếu không được đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự;
- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị P:
Buộc anh Lê Quang T trả cho chị Đoàn Thị P số tiền gốc là 365.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 25/7/2020 đến ngày 13/7/202 theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Lê Quang T có đăng ký hộ khẩu thường trú ở tổ 48 (nay là tổ 29), khu 11, phường T2, thành phố V, tỉnh Phú Thọ nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì.
[2] Quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
[3] Về nội dung: Xét thấy chị Đoàn Thị P và anh Lê Quang T có mối quan hệ quen biết nhau chị P đã nhiều lần cho anh T vay tiền. Trong quá trình vay, anh T đã trả cho chị p một phần số tiền gốc và lãi. Đến ngày 02/9/2020, chị P và anh T thống nhất chốt số nợ gốc anh T còn nợ chị P là 365.000.000đ (Ba trăm sáu mươi lăm triệu đồng), từ ngày 25/7/2020 đến ngày 02/9/2020 anh T chưa trả lãi cho chị P. Sau khi chốt nợ hai bên viết giấy cho nhau không ghi thời hạn trả nợ, theo chị P khai khi nào chị P cần đòi anh T phải trả ngay cho chị P. Do vậy hợp đồng vay tài sản giữa chị P và anh T là hợp đồng vay không kỳ hạn.
Xét yêu cầu của chị P thấy rằng: Chị P và anh T đều thống nhất, anh T có nợ của chị P số tiền gốc là 365.000.000đồng, anh T cũng nhất trí trả cho chị P số tiền gốc này. Do vậy cần buộc anh T phải trả cho chị P số tiền gốc là 365.000.000đồng.
Xét về tiền lãi thấy rằng: Theo anh T khai sau khi chốt nợ khoản tiền 365.000.000đ chị P không tính lãi, nhưng tại biên bản hòa giải thành ngày 3/6/2021 anh T thống nhất trả cho chị P cả gốc và lãi là 400.000.000đ và tại biên bản hòa giải ngày 12/7/2021 anh T xin chị P khoản tiền lãi từ ngày 25/7/2020 cho đến nay, điều đó chứng tỏ rằng chị P cho anh T vay khoản tiền trên có thỏa thuận về lãi, nhưng không xác định rõ mức lãi suất và có tranh chấp về lãi nên theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ. Vì vậy việc chị P yêu cầu anh T phải trả lãi cho chị là 1,66%/ tháng là không chấp nhận được mà chỉ có căn cứ chấp nhận là 0,83%/1 tháng theo quy định của Bộ luật dân sự.
Xét về thời hạn để tính lãi thấy rằng: Chị P và anh T đều thống nhất khoản tiền chốt nợ tính vay từ ngày 25/7/2020 và anh T chưa trả lãi cho chị p từ ngày 25/7/2020 cho đến nay. Chị P yêu cầu tính lãi từ ngày 25/7/2020 cho đến ngày Tòa án đưa vụ án ra xét xử là có căn cứ nên được chấp nhận.
Về lãi suất được tính như sau: 365.000.000đồng (tiền gốc) X 0,83%/ tháng X 11 tháng 18 ngày (từ ngày 25/7/2020 đến ngày 13/7/2021) = 35.137.000đồng. Do vậy cần buộc anh T phải cho chị P số tiền lãi là 35.137.000đồng.
Tổng cả Gốc và lãi anh T phải trả cho chị p là: 365.000.000đồng + 35.137.000đồng = 400.137.000đồng.
[4] Về án phí: Vì yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị P được chấp nhận nên anh Lê Quang T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà phát biểu ý kiến thấy là phù hợp nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463, 465, 466, 357, 468, 469 Bộ luật dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.
1/ Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đoàn Thị P.
Buộc anh Lê Quang T trả cho chị Đoàn Thị P số tiền gốc là 365.000.000đ (Ba trăm sáu mươi lăm triệu đồng) và lãi là 35.137.000đ (Ba mươi lăm triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng), tổng là 400.137.000đ (Bốn trăm triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng).
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 bộ luật dân sự 2015.
2/ Về án phí: Anh Lê Quang T phải chịu 20.005.000đ (Hai mươi triệu không trăm linh năm nghìn đồng) án phí dân sự. Trả lại cho chị Đoàn Thị P số tiền tạm ứng án phí là 9.725.000đ (Chín triệu bảy trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số A A/2020/000210 ngày 12/4/2021 của chi cục thi hành án dân sự thành phố V.
“Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để đề nghị xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 13/2021/DSST
Số hiệu: | 13/2021/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 13/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về