Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 120/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 120/2021/DS-ST NGÀY 15/10/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 15/10/2021, tại Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 25/2020/TLST-DS, ngày 13/02/2020,về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2021/QĐXX- DS ngày 16/8/2021; Quyết đinh hoãn phiên tòa số 96/2021/QĐST-DS, ngày 01/9/2021; Quyết đinh hoãn phiên tòa số 106/2021/QĐST-DS, ngày 17/9/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà L, có mặt.

Địa chỉ: Thôn S, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông.

- Bị đơn: Bà T, vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn a, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện ngày 07/01/2020, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà L trình bày:

Ngày 12/03/2019 (lịch âm), Bà T có thỏa thuận vay của bà Lvới số tiền 200.000.00 đồng (hai trăm triệu), hai bên thỏa thuận miệng, không thỏa thuận lãi suất, thời hạn vay 01 tuần kể từ ngày vay, không thế chấp tài sản hoặc giấy tờ có giá trị.

Sau khi thỏa thuận xong, bà L đã giao đủ số tiền 200.000.000 đồng cho bà T, bà T đã ký xác nhận nợ vào giấy viết tay ngày 12/03/2019 (lịch âm).

Khi đến hạn thanh toán nợ thì bà T không thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Nay bàLkhởi kiện và yêu cầu bà T phải thanh toán cho bà Lvới số tiền nợ gốc 200.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi suất.

2. Bị đơn Bà T: Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn cung cấp địa chỉ tại thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Khi tiến hành triệu tập và xác minh thì bà T đã chuyển khẩu về Thôn a, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Qua xác minh tại Công an xã Đức Mạnh, bà T đăng ký hộ khẩu thường trú tại Thôn a, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông và sinh sống cùng bà N (mẹ đẻ của bà T).

Hiện tại, bà T không có mặt tại địa phương, nhưng qua làm việc với bà N cung cấp: Bà T thỉnh thoảng về nhà, giữa bà T và bà N vẫn lạc với nhau qua điện thoại. Các Văn bản tố tụng của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tống đạt cho bà T, bà N nhận thay và cam kết thông báo đồng thời giao lại cho bà T.

Tại phiên tòa, đương sự vẫn giữ nguyên quan điểm của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn theo quy định pháp luật; Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm b khoản 1 Điều 39; Điều 91; Điều 92, Điều 144, Điều 147; Điều 227; Điều 228 Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng các Điều 278, Điều 280, Điều 351, Điều 352, Điều 353, Điều 357, Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019, của Hội đồng thẩm phán tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, buộc Bà T có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 200.000.000 đồng và án phí dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả số tiền vay theo giấy xác nhận nợ ngày 12/3/2019, phát sinh tranh chấp từ hợp đồng dân sự vay tài sản (vay tiền) được quy định tại khoản 3 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 463 của Bộ luật dân sự.

[1.2] Về thời hiệu khởi kiện: Vụ án còn trong thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 429 của Bộ luật dân sự.

[1.3] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có địa chỉ tại thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông sau đó chuyển về Thôn a, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông thụ lý và giải quyết là đúng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.4] Về sự vắng mặt của bị đơn Bà T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà T.Theo khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự “Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh mà không đưa ra được chứng cứ hoặc không đưa ra đủ chứng cứ thì Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ việc”. Như vậy, bà T phải chịu hậu quả về việc không đưa ra được và không đưa ra đủ chứng cứ để bảo vệ cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

[2] Về nội dung:

[2.1] Theo giấy vay tiền ngày 12/3/2019 (âm lịch), bà L cho Bà T vay số tiền 200.000.000 đồng, dưới mục người vay có chữ ký của Bà T, dưới mục người cho vay có chữ ký của bà L. Như vậy, hợp đồng vay tài sản (vay tiền) giữa bà L và Bà T là có thật được thể hiện qua giấy xác nhận nợ ngày 12/3/2019, do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án là bản gốc, có chữ ký xác nhận của bị đơn. Thỏa thuận của các bên được xác lập trên cơ sở tự nguyện, hình thức và nội dung không trái quy định tại Điều 463 của Bộ luật dân sự năm 2015, nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

Điều 463 của Bộ luật dân sự quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy đình”.

[2.3] Tại giấy xác nhận nợ ngày 12/3/2019, bà T cam kết trong vòng một tuần sẽ thanh toán tiền cho bà L kể từ ngày vay, nhưng khi đến hạn trả nợ bà T không thực hiện nghĩa vụ là vi phạm thực hiện nghĩa vụ dân sự và nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Khoản 1 Điều 466 của Bộ Luật dân sự quy định “Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn….”.

[3] Yêu cầu về nợ gốc: Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, bà L yêu cầu bà T trả số tiền nợ gốc là 200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng) theo giấy xác nhận nợ ngày 12/3/2019 (âm lịch).

[4] Về lãi suất: Nguyên đơn không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

[5] Trong quá trình giải quyết, bà L chỉ yêu cầu Bà T phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền theo giấy vay tiền. Vì bà T là người trực tiếp giao dịch và ký giấy nhận nợ. Nên yêu cầu của bà L là có cơ sở.

[6] Từ những căn cứ, lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà L, buộc Bà T phải thanh toán cho bà L tổng số tiền là:

200.000.000 đồng (hai trăm triệu đồng).

[7] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, cụ thể: 200.000.000 đồng x 5% = 10.000.000 đồng. Hoàn trả cho nguyên đơn bà L số tiền 5.000.000 đồng, tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu tạm ứng án phí lệ phí tòa án số 0001924, ngày 11/2/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 92, Điều 144, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Áp dụng các Điều 278, Điều 280, Điều 351, Điều 352, Điều 353, Điều 357, 463, Điều 465, Điều 466, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015. Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019, của Hội đồng thẩm phán tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án 1. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà L.

1.1. Buộc Bà T trả cho bà L số tiền nợ gốc 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí: Bà T phải chịu số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho bà L số tiền 5.000.000 đồng (năm triệu đồng), tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0001924, ngày 11/2/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông 3. Về nghĩa vụ thi hành án: Thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn bà L có mặt tại phiên tòa được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn Bà T vắng mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 120/2021/DS-ST

Số hiệu:120/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 15/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về