Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 110/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 110/2022/DS-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 252/2022/TLST-DS ngày 01/7/2022 về việc tranh chấp: “Hợp đồng vay tài sản”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 133/2022/QĐST-DS ngày 18/7/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Kim H, sinh năm 1958. Địa chỉ: ấp K, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

* Bị đơn: Bà Lê Ngọc L, sinh năm 1974.

Địa chỉ: ấp H, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

(Bà H, bà L có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 20/5/2022 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà Ngô Thị Kim H trình bày:

Do quen biết ngày 20/4/2021 bà L có hỏi vay bà H số tiền 20.000.000 đồng, lãi thỏa thuận 0,2%/tháng, bà L có làm biên nhận nợ và ký tên, thời hạn trả tháng 12/2021, nhưng cho đến nay bà L không trả được số tiền vốn và lãi cho bà H. Nay bà H yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà L có nghĩa vụ trả số tiền vay 20.000.000 đồng không yêu cầu trả lãi, trả 01 lần ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

* Tại bản tự khai các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn bà Lê Ngọc L trình bày:

Vào tháng 7/2020 âm lịch bà L có vay của bà H số tiền 20.000.000 đồng, lãi 20.000 đồng/ngày, cho đến ngày 20/4/2021 bà L có làm biên nhận nợ và ký tên, đến ngày 03/8/2021 bà L có trả cho bà H được 10.000.000 đồng nhưng không có làm biên nhận về việc giao trả và không có ai chứng kiến. Nay bà L chỉ đồng ý trả cho bà H số tiền 10.000.000 đồng, xin trả dần mỗi tháng 300.000 đồng do hoàn cảnh gia đình quá khó khăn. Không đồng ý trả theo yêu cầu của bà H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về nội dung: Nguyên đơn bà H yêu cầu bị đơn bà L trả số tiền vay 20.000.000 đồng. Bị đơn bà L chỉ đồng ý trả 10.000.000 đồng. Xét, theo lời khai bà H và L tại tòa trình bày thống nhất biên nhận nợ ngày 20/4/2021 do bà L cung cấp là do bà L viết và ký tên, bà L thừa nhận có vay của bà H 20.000.000 đồng. Tuy nhiên, bà L cho rằng đã trả cho bà H 10.000.000 đồng vào ngày 03/8/2021, bà H thì không thừa nhận có nhận số tiền này. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại tòa bà L cho rằng đã trả cho bà H 10.000.000 đồng nhưng bà L xác định khi trả không có làm giấy tờ gì và cũng không có ai chứng kiến.

[2] Đồng thời, bà L cho rằng đã trả cho bà H số tiền này vào ngày 03/8/2021 là không có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, tại thời điểm này trên địa bàn huyện Cái Bè đang áp dụng chỉ thị 15, 16 của Thủ tướng về phòng chống dịch bệnh covid 19 không cho người dân đi ra khỏi nhà, nên việc bà L cho rằng đã đi qua nhà bà H trả 10.000.000 đồng là không có căn cứ. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bà L không cung cấp được tài liệu chứng cứ gì để chứng minh cho việc đã trả cho bà H số tiền này. Do đó, có căn cứ xác định bà L có vay và còn nợ bà H số tiền 20.000.000 đồng cho đến nay chưa trả, nên bà H yêu cầu bà L có nghĩa vụ trả số tiền vay 20.000.000 đồng là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự.

[3] Tại phiên tòa, hai bên đương sự không thỏa thuận được về thời gian trả số tiền vốn và lãi. Cho nên, về phương thức trả, thời gian trả số tiền trên do hai bên đương sự thỏa thuận với nhau khi đến giai đoạn thi hành án.

[4] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án, nên bà L phải chịu: 20.000.000 đồng x 5% = 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 463, Điều 466, khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự; Điều 271, Điều 272, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Xử :

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Kim H.

Buộc bà Lê Ngọc L có nghĩa vụ trả cho bà Ngô Thị Kim H số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Bà Lê Ngọc L phải chịu 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Do bà Ngô Thị Kim H là người cao tuổi có đơn xin miễn nộp tiền tạm ứng án phí và được Tòa án chấp nhận cho miễn toàn bộ tiền tạm ứng án phí, nên không có hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí cho bà H theo quy định.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Ngô Thị Kim H, bà Lê Ngọc L được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

4. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 110/2022/DS-ST

Số hiệu:110/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về