Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 104/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NĂNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 104/2021/DS-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 167/2021/TLST- DS ngày 12 tháng 5 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 118/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 97/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 9 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S; địa chỉ: 2XX đường N, quận x, thành phố Hồ Chí Minh; người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D, chức vụ: Tổng giám đốc; người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Văn T, chức vụ: Phó Phòng giao dịch B - Ngân hàng TMCP S chi nhánh Đắk Lắk, địa chỉ: 4xx đường V, thị xã H, tỉnh Đắk Lắk (Có mặt).

- Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A; trú tại: Buôn T, xã Đ, huyện N, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, quá trình tham gia tố tụng đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Hà Văn T trình bày:

Ngày 25/9/2019 ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A có ký hợp đồng cho vay số LD1926700612 với Ngân hàng TMCP S chi nhánh Đắk Lắk – PGD H để vay số tiền 560.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, ngày trả nợ 26/9/2020, lãi suất 11%/năm tại thời điểm ký giấy nhận nợ, mục đích vay sản xuất nông nghiệp. Quá trình thực hiện hợp đồng ông T, bà A vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết. Mặc dù, Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, đôn đốc ông T, bà A trả nợ nhưng ông T, bà A trây ỳ, cố tình lẫn tránh. Tổng tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 29/9/2021 là 718.980.635 đồng (trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng;

lãi theo mức lãi suất trong hạn 122.308.535 đồng; lãi vượt mức lãi suất trong hạn 36.672.100 đồng).

Để đảm bảo khoản vay ông T, bà A ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC-BH ngày 24/9/2018 và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC-BH/01 ngày 25/9/2019 để thế chấp cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ834602 do UBND huyện N cấp ngày 30/9/2015 cho ông Nguyễn Tấn T đối với thửa đất số 39; tờ bản đồ số 49; diện tích 15.161,5m2; tọa lạc tại buôn T, xã Đ, huyện N.

Nay, ông T, bà A không trả nợ theo đúng hợp đồng đã ký kết. Vì vậy, Ngân hàng TMCP S khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết:

Buc ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A phải trả cho ngân hàng tổng tiền gốc và lãi suất tính đến ngày 29/9/2021 là 718.980.635 đồng (trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng; lãi theo mức lãi suất trong hạn 122.308.535 đồng; lãi vượt mức lãi suất trong hạn 36.672.100 đồng).

Ngoài ra, ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A phải chịu lãi suất chậm trả tính từ ngày 30/9/2021 cho đến khi trả xong các khoản nợ của ngân hàng với mức lãi suất mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật.

- Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định. Tuy nhiên, bị đơn ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A đều vắng mặt nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án; ý kiến của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về thẩm quyền và quan hệ tranh chấp: Quan hệ tranh chấp giữa các đương sự là “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, bị đơn có nơi cư trú tại huyện N, tỉnh Đắk Lắk và nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Krông Năng giải quyết. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

[1.2] Tại phiên tòa, bị đơn ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử theo quy định.

[2] Về nội dung:

[2.1] Ngày 25/9/2019 ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A có ký hợp đồng vay số LD1926700612 với Ngân hàng TMCP S chi nhánh Đắk Lắk – PGD H để vay số tiền 560.000.000 đồng, thời hạn vay 12 tháng, ngày trả nợ 26/9/2020, lãi suất 11%/năm tại thời điểm ký giấy nhận nợ, mục đích vay sản xuất nông nghiệp.

Để đảm bảo khoản vay ông T, bà A ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC-BH ngày 24/9/2018 và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC-BH/01 ngày 25/9/2019 để thế chấp cho Ngân hàng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ834602 do UBND huyện N cấp ngày 30/9/2015 cho ông Nguyễn Tấn T đối với thửa đất số 39; tờ bản đồ số 49; diện tích 15.161,5m2; tọa lạc tại buôn T, xã Đ, huyện N.

Quá trình thực hiện hợp đồng ông T, bà A vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đã ký kết. Mặc dù, Ngân hàng đã nhiều lần làm việc, đôn đốc ông T, bà A trả nợ nhưng ông T, bà A trây ỳ, cố tình lẫn tránh. Hợp đồng cho vay ký kết giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 463 Bộ luật dân sự năm 2015 và Điều 91 Luật tổ chức tín dụng. Nay đã quá hạn trả nợ gốc nhưng ông T, bà A không thực hiện trả nợ theo thỏa thuận là vi phạm mục 3.2 Điều 3 của Hợp đồng cho vay.

Như vậy, việc Ngân hàng khởi kiện yêu cầu ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A phải trả toàn bộ dư nợ gốc và lãi tính đến hết ngày 29/9/2021 là 718.980.635 đồng (trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng; lãi theo mức lãi suất trong hạn 122.308.535 đồng; lãi vượt mức lãi suất trong hạn 36.672.100 đồng) là có cơ sở, cần chấp nhận.

Kể từ ngày 30/9/2021, ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng cho vay cho đến khi thanh toán xong các khoản nợ.

[2.2] Sau khi ông T, bà A trả hết nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho ông T, bà A giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ834602 do UBND huyện N cấp ngày 30/9/2015 cho ông Nguyễn Tấn T đối với thửa đất số 39; tờ bản đồ số 49; diện tích 15.161,5m2; tọa lạc tại buôn T, xã Đ, huyện N.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật.

[3] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A phải chịu [20.000.000 đồng + (718.980.635 đồng – 400.000.000 đồng) x 4%] = 32.759.000 đồng (làm tròn) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 317; Điều 318; Điều 319; Điều 463; Điều 466; Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 91, Điều 95 Luật tổ chức tín dụng;

- Căn cứ Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP S.

1. Buộc ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A trả cho Ngân hàng TMCP S số nợ tính đến hết ngày 29/9/2021 là 718.980.635 đồng (Bảy trăm mười tám triệu, chín trăm tám mươi ngàn, sáu trăm ba mươi lăm đồng) , trong đó: Tiền nợ gốc 560.000.000 đồng; lãi theo mức lãi suất trong hạn 122.308.535 đồng; lãi vượt mức lãi suất trong hạn 36.672.100 đồng.

Tiếp tục tính lãi suất phát sinh với mức lãi suất theo hợp đồng cho vay số LD1926700612 ngày 25/9/2019 cho đến khi ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A trả xong nợ.

2. Sau khi ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A trả hết nợ cho ngân hàng thì ngân hàng có nghĩa vụ trả lại cho ông T, bà A giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ834602 do UBND huyện N cấp ngày 30/9/2015 cho ông Nguyễn Tấn T đối với thửa đất số 39; tờ bản đồ số 49; diện tích 15.161,5m 2; tọa lạc tại buôn T, xã Đ, huyện N.

Trường hợp vợ chồng ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự xử lý tài sản của ông T, bà A đã thế chấp để đảm bảo khoản vay, theo hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC-BH ngày 24/9/2018 và thỏa thuận sửa đổi, bổ sung hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 00979/2018/TC - BH/01 ngày 25/9/2019 theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Ông Nguyễn Tấn T, bà Thái Thị Kim A phải chịu 32.759.000 đồng (Ba mươi hai triệu, bảy trăm năm mươi chín ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Ngân hàng TMCP S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được nhận lại số tiền 15.339.000 đồng (Mười lăm triệu, ba trăm ba mươi chín ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0002795 ngày 05/5/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N, tỉnh Đắk Lắk.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được niêm yết tại UBND xã, phường và nơi họ cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 104/2021/DS-ST

Số hiệu:104/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Năng - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về