TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CR, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 10/2021/DSST NGÀY 23/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 4 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố CR – tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân thành phố CR tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 171/2020/TLST-DS ngày 03 tháng 11 năm 2020 về “tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2021/QĐST-DS ngày 29 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Châu Thị H - sinh năm: 1970 Địa chỉ: Tổ dân phố HD 6A, phường CPB, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa.
Đại diện theo ủy quyền:
Bà Nguyễn Thị Minh Tr, sinh năm 1985 Địa chỉ: 18, Nguyễn Lương B, TDP PT, phường CP, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
2. Bị đơn:
1. Ông Châu Văn C, sinh năm 1964
2. Bà Huỳnh Thị Cẩm T, sinh năm 1974 Địa chỉ: Tổ dân phố HD 6A, phường CPB, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa (Ông C vắng mặt, bà T có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 30/6/2017, bà Châu Thị H có cho vợ chồng ông Châu Văn C, bà Huỳnh Thị Cẩm T vay số tiền 150.000.000 đồng để làm ăn. Hai bên có lập hợp đồng vay tiền và được Văn phòng công chứng Trường An chứng thực cùng ngày. Lãi suất thỏa Tận là 3%/tháng, thời hạn vay là 01 năm.
Tại hợp đồng vay tiền này, ông C và bà T đã thế chấp cho bà H lô đất thửa số 55, tờ bản đồ số 32 diện tích 324,8 m2 địa chỉ tổ dân phố HD 6A, phường CPB, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa theo giấy chứng nhận QSD đất số phát hành BN 325042, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất số CH10141 do UBND thành phố CR cấp ngày 15/4/2013 cho ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ cho nguyên đơn. nguyên đơn.
Tuy nhiên đến nay, ông C, bà T không chịu trả tiền gốc và lãi theo thỏa Tận và tìm cách tránh mặt nguyên đơn. Vì vậy nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T phải trả cho nguyên số tiền gốc là 150.000.000 đồng và tiền lãi theo mức lãi suất 1,66%/tháng kể từ ngày vay đến khi xét xử vụ án.
* Tại bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Huỳnh Thị Cẩm T trình bày:
Việc vợ chồng bà có vay của bà Châu Thị H số tiền 150.000.000 đồng tiền gốc hoàn toàn đúng bà H đã trình bày tại Tòa. Tuy nhiên bà đã trả cho bà H được 27 tháng lãi kể từ ngày vay đến tháng 9/2019 nhưng vì là người trong nhà nên khi đưa tiền lãi cho bà H, bà không yêu cầu ghi biên nhận. Bà đang rao bán đất để trả tiền cho bà H nhưng không bán được đất. Bà đồng ý trả cho bà H 150.000.000 đồng tiền gốc. Số tiền lãi còn lại bà H đã đồng ý cho ông bà nên bà không đồng ý trả tiền lãi. Bà xin trả dần tiền gốc mỗi tháng 3.000.000 đồng từ đây cho đến khi hết nợ.
Bị đơn ông Châu Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa ghi lời khai và tham gia hòa giải nhưng cố tình vắng mặt.
* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:
- Nguyên đơn đã giao nộp: Hợp đồng vay tiền ngày 30/6/2017 (bản chính)
* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố CR đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 463 và điều 466 Bộ luật dân sự; Điều 26, Điều 35, Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Buộc ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T phải trả cho bà Châu Thị H 150.000.000 đồng tiền gốc và tiền lãi theo mức lãi suất 1,66%/tháng kể từ ngày vay đến ngày xét xử vụ án. Nguyên đơn có nghĩa vụ trả lại cho bị đơn giấy chứng nhận QSD đất đã giao cho nguyên đơn để đảm bảo khoản vay.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Bà Châu Thị H khởi kiện ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”. Yêu cầu của bà H Tộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn ông Châu Văn C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do nhưng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ giấy triệu tập, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Minh Trang và bị đơn bà Huỳnh Thị Cẩm T có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ vào điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2]. Về nội dung vụ án: Theo chứng cứ do nguyên đơn cung cấp thể hiện: vào ngày 30/6/2017, bà Châu Thị H có cho vợ chồng ông Châu Văn C, bà Huỳnh Thị Cẩm T vay số tiền 150.000.000 đồng. Lãi suất thỏa Tận là 3%/tháng, thời hạn vay là 01 năm. Hai bên có lập hợp đồng vay tiền và được Văn phòng công chứng Trường An chứng thực cùng ngày.
Bị đơn bà Huỳnh Thị Cẩm T cũng xác nhận việc vay số tiền 150.000.000 đồng của bà Châu Thị H hoàn toàn đúng như đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn đã khai. Bà T cũng nhất trí sẽ trả số tiền gốc cho bà H nhưng xin được trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng.
Tuy nhiên về tiền lãi, các đương sự không thống nhất với nhau. Đại diện nguyên xác định từ khi vay đến nay, vợ chồng ông C, bà T chưa hề đưa tiền lãi cho nguyên đơn theo thỏa Tận tại hợp đồng là 3%/tháng. Bị đơn bà T lại cho rằng đã đưa cho bà H 27 tháng lãi kể từ ngày vay, số lãi còn lại bà H đã đồng ý cho vợ chồng bà không phải trả nữa. Tòa án đã tiến hành đối chất giữa hai bên nhưng đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không chấp nhận ý kiến của bị đơn trong khi phía bị đơn lại xác định không có chứng cứ để chứng minh việc đưa tiền lãi của mình, bị đơn ông Châu Văn C lại cố tình vắng mặt không thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận theo yêu cầu của bị đơn bà Huỳnh Thị Cẩm T. Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn yêu cầu tiền lãi theo mức lãi suất 1,66%/tháng kể từ ngày 01/7/2017 đến ngày 23/4/2021 là 45 tháng 22 ngày là phù hợp với quy định của pháp luật, cụ thể tiền lãi là:
150.000.000 đồng x 1,66%/tháng x 45 tháng 22 ngày = 113.876.000 đồng Xét thấy việc vay tài sản đã kéo dài một thời gian khá dài nhưng việc bị đơn xin trả nợ dần mỗi tháng 3.000.000 đồng đã làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Do đó, yêu cầu của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn buộc ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T phải trả cho bà Châu Thị H 150.000.000 đồng tiền gốc và 113.876.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 263.876.000 đồng là phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Việc bị đơn Châu Văn C, Huỳnh Thị Cẩm T giao một giấy chứng nhận QSD đất cho bà Châu Thị H để đảm bảo khoản vay nhưng không thực hiện đúng quy định pháp luật về hợp đồng thế chấp tài sản nên bà Châu Thị H có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Châu Văn C giấy chứng nhận QSD lô đất thửa số 55, tờ bản đồ số 32 diện tích 324,8 m2 địa chỉ tổ dân phố Hòa Do 6A, phường Cam Phúc Bắc, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa theo giấy chứng nhận QSD đất số phát hành BN 325042, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất số CH10141 do UBND thành phố CR cấp ngày 15/4/2013 cho ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T.
[3]. Về án phí: Bị đơn phải nộp 5% án phí DSST đối với khoản tiền phải trả cho nguyên đơn:
Cụ thể: 283.876.000 đồng x 5% = 13.193.800 đồng.
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các điều 463 và điều 466 Bộ luật dân sự;
Áp dụng điều 26, điều 35, điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:
[1]. Buộc ông Châu văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T phải trả cho bà Châu Thị H 150.000.000 đồng tiền gốc và 113.876.000 đồng tiền lãi, tổng cộng là 263.876.000 đồng (Hai trăm sáu mươi ba triệu tám trăm bảy mươi sáu nghìn đồng).
Bà Châu Thị H có nghĩa vụ hoàn trả lại cho ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T giấy chứng nhận QSD lô đất thửa số 55, tờ bản đồ số 32 diện tích 324,8 m2 địa chỉ tổ dân phố Hòa Do 6A, phường Cam Phúc Bắc, thành phố CR, tỉnh Khánh Hòa theo giấy chứng nhận QSD đất số phát hành BN 325042, số vào sổ cấp giấy chứng nhận QSD đất số CH10141 do UBND thành phố CR cấp ngày 15/4/2013 cho ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T.
[2].Về án phí: Ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T phải nộp 13.193.800 đồng tiền án phí Dân sự sơ thẩm.
Hoàn lại cho bà Châu Thị H 6.177.750 đồng tiền tạm ứng án phí mà bà H đã nộp theo Biên lai T tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2019/0000921 ngày 30/10/2020 tại C cục thi hành án dân sự thành phố CR.
[3]. Quy định: Kể từ ngày bà Châu Thị H có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Châu Văn C và bà Huỳnh Thị Cẩm T chưa thi hành xong khoản tiền phải trả cho nguyên đơn thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự.
[4].Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án sơ thẩm hoặc từ ngày niêm yết bản án sơ thẩm
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 10/2021/DSST
Số hiệu: | 10/2021/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 23/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về