Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2023/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 08/2023/DS-ST NGÀY 31/01/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 31 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chợ Mới xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 311/2022/TLST- DS ngày 21 tháng 10 năm 2022 về tranh chấp“Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 659/2023/QĐXX-ST ngày 27 tháng 12 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 24/2023/TB-TA ngày 13 tháng 01 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ X (sau đây được gọi tắt là Công ty X);

Người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng: Ông Trần Hữu B, nhân viên; Địa chỉ liên hệ: F2 - 73, đường V, khu vực T, phường P, Quận R, Thành phố C, (có mặt), là đại diện theo ủy quyền theo các Văn bản ủy quyền số 33/UQTA.GLX.22 ngày 18/5/2022 của bà Nguyễn Thị H.T và Văn bản ủy quyền lại số 33/UQTT.DLO.2022 ngày 18/5/2022 của ông Huỳnh Minh T;

Bị đơn: Ông Nguyễn Thành T, sinh năm 1971; địa chỉ: ấp L, xã L.B, huyện C, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai thu thập trong quá trình giải quyết vụ án và lời trình bày tại các phiên hòa giải, nguyên đơn, người đại diện hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: ngày 19/7/2017, Công ty Tài chính trách nhiệm hữu hạn Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng SMBC (sau đây được gọi tắt là Công ty tài chính SMBC) có ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Thành T; theo hợp đồng Công ty cho ông T vay số tiền 42.200.000 đồng (bốn mươi hai triệu hai trăm nghìn) với lãi suất thỏa thuận 3,54%/tháng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, ông T có trách nhiệm thanh toán số tiền 62.058.018 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả trong 24 tháng, tương ứng 24 kỳ, bắt đầu từ ngày 12/8/2017. Ông T đã nhận đủ tiền vay theo hợp đồng và đã thanh toán cho Công ty tài chính SMBC 11 lần với tổng số tiền 29.159.000 đồng. Tuy nhiên, kể từ ngày 10/6/2018 đến nay, ông T không thanh toán thêm bất cứ khoản tiền nào mặc dù Công ty đã nhiều lần nhắc nhở.

Ngày 29/3/2021, khoản nợ của ông Nguyễn Thành T đã được Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (nay là Công ty tài chính SMBC) chuyển nhượng cho Công ty X theo Hợp đồng mua bán nợ số VPBFC-GALAXY-21-0003. Do ông T đã trễ hạn thanh toán nên Công ty X khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thành T có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng).

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để chứng minh cho ý kiến, yêu cầu khởi kiện của mình là: Đơn khởi kiện; tờ tự khai; 01 (một) bản sao hợp đồng tín dụng, hợp đồng mua bán nợ, các thủ tục đăng ký hoạt động của công ty Galaxy.

Bị đơn Nguyễn Thành T vắng mặt nên không thể ghi nhận được ý kiến, không có văn bản trình bày ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ nên không tiến hành hòa giải được. Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định.

Tại phiên tòa, - Nguyên đơn vắng mặt, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày, vẫn giữ nguyên ý kiến, yêu cầu khởi kiện. Yêu cầu ông T có nghĩa vụ trả cho Công ty X vốn và lãi tính đến Công ty X khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thành T có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng). Ngoài ra không yêu cầu bất cứ khoản tiền lãi phát sinh nào khác.

- Bị đơn Nguyễn Thành T vắng mặt nên không thể ghi nhận được ý kiến, không tiến hành hòa giải được.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C phát biểu quan điểm về tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 195, 196, 197, 198 và Điều 203; Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 về phiên tòa sơ thẩm, bảo đảm các trình tự, thủ tục và quyền tranh tụng tại phiên tòa.

- Việc chấp hành pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng đối với nguyên đơn, từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 71 và Điều 234; bị đơn từ khi thụ lý vụ án và tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 70, 72 và Điều 234 từ khi thụ lý vụ án, tại phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định tại các Điều 76 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về giải quyết vụ án:

Hợp đồng tín dụng số 20170725 - 0001207 ngày 19/7/2017 với số tiền đã giải ngân là 42.200.000 đồng giữa ông T và Công ty Tài chính SMBC được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, khi vay có lập thành văn bản và có chữ ký xác nhận của ông T, việc ông T không trả tiền vốn và lãi suất Công ty tài chính SMBC theo thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ của bên vay nên Công ty tài chính SMBC bán khoản nợ trên cho Công ty X; Công ty X khởi kiện yêu cầu ông T có nghĩa vụ trả gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng) là có căn cứ chấp nhận.

Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự và Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng, đề xuất:

nợ X.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn mua bán - Buộc ông Nguyễn Thành T có nghĩa vụ trả cho Công ty trách nhiệm hữu hạn X số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp: Theo đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn có nghĩa vụ trả tiền vay và lãi suất; căn cứ khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự xác định là tranh chấp“hợp đồng vay tài sản”.

[2] Về thẩm quyền: bị đơn có địa chỉ cư trú tại huyện C nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự: bị đơn vắng mặt tuy được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[4] Về nội dung:

[4.1] Về việc xác lập và thực hiện hợp đồng:

Theo nội dung đơn kiện, nguyên đơn cho rằng ngày 19/7/2017, Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng SMBC (sau đây được gọi tắt là Công ty tài chính SMBC) có ký hợp đồng tín dụng với ông Nguyễn Thành T; theo hợp đồng Công ty cho ông T vay số tiền 42.200.000 đồng (bốn mươi hai triệu hai trăm nghìn) với lãi suất thỏa thuận 3,54%/tháng. Theo thỏa thuận trong hợp đồng, ông T có trách nhiệm thanh toán số tiền 62.058.018 đồng (gồm cả gốc và lãi), trả trong 24 tháng, tương ứng 24 kỳ, bắt đầu từ ngày 12/8/2017. Ông T đã nhận đủ tiền vay theo hợp đồng và đã thanh toán cho Công ty tài chính SMBC 11 lần với tổng số tiền 29.159.000 đồng. Tuy nhiên, kể từ ngày 10/6/2018 đến nay, ông T không thanh toán thêm bất cứ khoản tiền nào mặc dù Công ty đã nhiều lần nhắc nhở.

Ngày 29/3/2021, khoản nợ của ông Nguyễn Thành T đã được Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (nay là Công ty tài chính SMBC) chuyển nhượng cho Công ty GALAXY theo Hợp đồng mua bán nợ số VPBFC-GALAXY-21-0003. Do ông T đã trễ hạn thanh toán nên Công ty X khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thành T có nghĩa vụ trả cho Công ty số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng).

[4.2] Về nhận định, đánh giá tài liệu, chứng cứ:

Hợp đồng tín dụng số 20170725 - 0001207 ngày 19/7/2017 giữa ông T và Công ty Tài chính SMBC với số tiền đã giải ngân 42.200.000 đồng; đánh giá hợp đồng tín dụng được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, khi vay các bên có lập thành văn bản và có chữ ký xác nhận của ông Tâm, việc ông Tâm không trả tiền vốn và lãi suất Công ty tài chính SMBC theo thỏa thuận là vi phạm nghĩa vụ của bên vay nên Công ty tài chính SMBC bán khoản nợ trên cho Công ty X; Công ty X khởi kiện yêu cầu ông T có nghĩa vụ trả gốc và lãi tạm tính đến ngày 12/7/2019 là 32.899.018 đồng (vốn gốc 26.302.692 đồng, lãi 6.529.326 đồng) là phù hợp quy định pháp luật, có căn cứ chấp nhận.

[5] Về lãi suất: phía nguyên đơn không yêu cầu bất cứ khoản tiền lãi phát sinh sau khi thực hiện việc mua bán nợ, không đề cập giải quyết.

[6] Về án phí:

Căn cứ khoản 3 Điều 144; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên không phải chịu án phí, được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 800.000 đồng (tám trăm nghìn) theo biên lai thu số 0012714 ngày 21 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn Nguyễn Thành T phải chịu án phí theo quy định là 5% số tiền 32.899.018 đồng, tương ứng 1.645.000 đồng (một triệu sáu trăm bốn mươi lăm nghìn).

[7] Đánh giá quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ được Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 280, 298, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; Các Điều 91, 95 Luật các Tổ chức tín dụng;

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Xử:

1.1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ X;

Buộc ông Nguyễn Thành T có nghĩa vụ trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ X số tiền 32.899.018 đồng (ba mươi hai triệu tám trăm chín mươi chín nghìn không trăm mười tám đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

2. Về án phí:

Công ty Trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ X được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 800.000 đồng (tám trăm nghìn) theo biên lai thu số 0012714 ngày 21 tháng 10 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang.

Bị đơn Nguyễn Thành T phải chịu 1.645.000 đồng (một triệu sáu trăm bốn mươi lăm nghìn) án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bản án để Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Bị đơn Nguyễn Thành T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc được niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 08/2023/DS-ST

Số hiệu:08/2023/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 31/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về