Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2024/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 03/2024/DS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 25/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 198/2023/TLST-DSST ngày 07/11/2023 về việc “Tranh chấp Hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2023/QĐ-DSST ngày 28/12/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-DS ngày 12/01/2024, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Ông Trần Công C, sinh năm 1968; địa chỉ: Thôn H, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q. Có mặt

* Bị đơn: Ông Võ Văn H, sinh năm 1950; địa chỉ: Thôn M, xã H, huyện H, thành phố Đ. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn – ông Trần Công C trình bày: Vào ngày 08/4/2021, ông Trần Công C có cho ông Võ Văn H mượn số tiền 150.000.000 đồng và ông H có thế chấp lại một Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H. Việc vay tiền có viết giấy mượn tiền đề ngày 08/4/2021 do ông H viết. Hết thời hạn ông Trần Công C đã nhiều lần yêu cầu ông H thanh toán nhưng ông H không thực hiện và cố tình lẫn tránh. Vì vậy, ông Trần Công C khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét buộc ông Võ Văn H thanh toán số tiền nợ gốc 150.000.000 đồng và lãi suất 10%/năm tính từ ngày 09/07/2021 đến ngày 25/01/2024 là 36.000.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 186.000.000 đồng.

* Trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa bị đơn – ông Võ Văn H trình bày:

Vào ngày 08/4/2021, ông Võ Văn H có mượn ông Trần Công C số tiền 150.000.000 đồng và có thế chấp lại một Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H. Việc vay tiền có viết giấy mượn tiền đề ngày 08/4/2021 là chữ viết và chữ ký do ông H viết nhưng chữ viết ở trang sau với nội dung “TK 56110001181396 Ngân hàng BIDV: Dương Tấn Vinh” ông H cho rằng không phải chữ viết của ông Võ Văn H. Tuy nhiên, sau khi viết giấy mượn tiền thì ông C không đưa tiền cho ông H, ông C giao tiền cho ai ông không biết.

Nay ông Trần Công C khởi kiện đòi lại số tiền trên thì ông Võ Văn H đồng ý trả cho ông Trần Công C số tiền 150.000.000 đồng, tuy nhiên ông H đợi sau khi bà Trần Thị Sáng trả nợ cho ông H số tiền 130.000.000 đồng theo bản án số 15/2023/DS-ST ngày 28/4/2023 về việc “Đòi tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng thì mới có tiền trả vì số tiền này ông đứng ra mượn cho bà Sáng. Về phần tiền lãi mà ông C yêu cầu ông H thì đề nghị Tòa án xem xét không không trả vì hoàn cảnh khó khăn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Trần Công C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố tụng: Những người tham gia tố tụng đã được thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” của ông Trần Công C đối với ông Võ Văn H. Buộc ông Võ Văn H phải trả cho ông Trần Công C số tiền 150.000.000 đồng và lãi xuất theo quy định của pháp luật là 10%/năm từ ngày 09/7/2021 đến ngày 25/01/2024 là 36.000.000 đồng. Tổng cộng 186.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết qủa tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện của ông Trần Công C nộp tại Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng và Tòa án đã thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại Điều 26; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Vào ngày 08/4/2021, ông Trần Công C có cho ông Võ Văn H mượn số tiền 150.000.000 đồng và hẹn đến tháng 07/2021 ông H sẽ trả lại tiền và ông H đã thế chấp lại một Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H cho ông Trần Công C để làm tin. Tuy nhiên, theo ông C thì khi hết thời hạn ông C đã nhiều lần yêu cầu ông H thanh toán nợ nhưng ông H không thực hiện và cố tình lẫn tránh. Vì vậy, ông Trần Công C khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét buộc ông Võ Văn H có nghĩa vụ thanh toán số tiền nợ gốc 150.000.000 đồng và lãi suất 10%/năm tính từ ngày 09/07/2021 đến ngày 25/01/2024 là 36.000.000 đồng. Tổng cộng hai khoản là 186.000.000 đồng.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

Vào ngày 08/4/2021, ông Trần Công C có cho ông Võ Văn H mượn số tiền 150.000.000 đồng và hẹn đến tháng 07/2021 ông H sẽ trả lại tiền và ông H đã thế chấp lại một Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H cho ông Trần Công C để làm tin. Việc mượn tiền có viết giấy mượn tiền đề ngày 08/4/2021 và hoàn toàn tự nguyện do ông H viết và ký. Việc mượn tiền có viết mượn đề ngày 08/4/2021 do ông H viết. Hết thời hạn ông C đã nhiều lần yêu cầu ông H thanh toán nhưng ông H không thực hiện và cố tình lẫn tránh, dây dưa kéo dài không trả nợ. Vì vậy ông C yêu cầu ông Võ Văn H phải thanh toán số tiền là 186.000.000 đồng, trong đó nợ gốc là 150.000.000 đồng, tiền lãi theo lãi suất 10%/năm tính từ ngày 09/7/2021 đến ngày 25/01/2024 là 36.000.000 đồng.

Với chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình là giấy mượn tiền của ông Võ Văn H cũng như các tài liệu chứng cứ khác là bản sao Giấy chứng nhận QDSĐ số E0263433 do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994 đứng tên ông Võ Văn H đã thế chấp cho ông Trần Công C là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa ông Võ Văn H cũng thừa nhận viết giấy mượn tiền của ông C, do đó HĐXX xét thấy số tiền ông H nợ ông C đã lâu nhưng ông H không có thiện chí trả nợ dứt điểm cho ông C. Vì vậy, việc ông C yêu cầu ông H trả nợ là hoàn toàn chính đáng và phù hợp, có căn cứ nên HĐXX cần chấp nhận.

Đối với bị đơn – ông Võ Văn H, HĐXX thấy rằng: Ông Võ Văn H xác nhận có viết giấy mượn tiền vào ngày 08/4/2021 để mượn ông Trần Công C số tiền 150.000.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện không bị ép buộc, đồng thời khi viết giấy mượn tiền của ông C thì ông H còn tự nguyện giao 01 bản gốc Giấy chứng nhận QSDĐ số E0263433 do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994 đứng tên ông Võ Văn H cho ông C để làm tin trong việc mượn tiền. Tại phiên tòa, ông Võ Văn H đồng ý trả cho ông C số tiền 150.000.000 đồng sau khi bà Trần Thị Sáng trả nợ cho ông H số tiền 130.000.000 đồng theo bản án số 15/2023/DS-ST ngày 28/4/2023 về việc “Đòi tài sản” của Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng vì số tiền này ông H đứng ra vay cho bà Sáng. Về phần tiền lãi 36.000.000 đồng thì ông H đề nghị Tòa án xem xét không thanh toán vì hoàn cảnh khó khăn. Ngoài ra, Ông Võ Văn H đề nghị ông C trả lại cho ông 01 bản gốc Giấy chứng nhận QSDĐ số E0263433 do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994 đứng tên ông Võ Văn H.

HĐXX xét thấy số tiền 150.000.000 đồng mà ông Võ Văn H đã mượn ông C đã lâu nhưng không có thiện chí trả nợ nên cần buộc ông H phải có nghĩa vụ trả lại cho ông Trần Công C là có căn cứ.

Xét yêu cầu tính lãi theo quy định của pháp luật của ông Trần Công C thì thấy: Tiền lãi 10%/năm tính từ ngày 09/7/2021 đến ngày 25/01/2024 và ông Trần Công C chỉ yêu cầu tiền lãi là 36.000.000 đồng. HĐXX thấy yêu cầu tính lãi của nguyên đơn ông Trần Công C đối với bị đơn ông Võ Văn H là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Đối với yêu cầu của ông Võ Văn H yêu cầu không xem xét và miễn tính lãi nhưng không được nguyên đơn chấp nhận nên không có cơ sở xem xét giải quyết.

Đối với Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H là tài sản hợp pháp đứng tên sở hữu của ông H nên ông Trần Công C có nghĩa vụ trả lại cho ông H là phù hợp.

[3] Theo quy định Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về miễn nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, lệ phí Tòa án và Luật người cao tuổi, HĐXX xét thấy ông Võ Văn H là người cao tuổi, có xác nhận của chính quyền địa phương nên HĐXX thấy cần miễn số tiền án phí đối với ông Võ Văn H là phù hợp.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang tại phiên tòa là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, Điều 466, Điều 470 Bộ luật dân sự. Điều 147, Điều 227; Điều 228; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản” của ông Trần Công C đối với ông Võ Văn H. X Buộc ông Võ Văn H phải có nghĩa vụ trả cho ông Trần Công C số tiền 186.000.000 đồng. (Trong đó, tiền gốc 150.000.000 đồng, tiền lãi 36.000.000 đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền.

Ông Trần Công C có nghĩa vụ trả lại cho ông Võ Văn H 01 bản gốc Giấy chứng nhận QSDĐ thửa đất số 764, tờ bản đồ số 48, DT 500m2 đất thổ cư do UBND huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 29/9/1994, số E0263433 đứng tên ông Võ Văn H.

Ông Võ Văn H không phải nộp án phí DSST. Hoàn trả lại cho ông Trần Công C số tiền tạm ứng án phí đã nộp 5.925.000 đồng theo biên lai thu số 0000577 ngày 06/11/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết tài nơi cư trú.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2024/DS-ST

Số hiệu:03/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về