Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 03/2022/DS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 55/2021/TLST- DS ngày 01 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2021/QĐXXST-DS ngày 27 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST-DS ngày 20/01/2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số 09/2022/TB-TA ngày 14/02/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đoàn Đắc Đ, sinh năm 1960;

Địa chỉ: Thôn N, xã Ek, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk – (có mặt).

- Bị đơn: Bà H’ KN. Địa chỉ: Buôn E, xã EB, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk – (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Y D. Địa chỉ: Buôn E, xã EB, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk – (vắng mặt).

2. Bà H’ N. Địa chỉ: Buôn E, xã EB, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk – (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 20/4/2021 và quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn ông Đoàn Đắc Đ trình bày:

Vào ngày 06/4/2018, Bà H’ KN có vào nhà tôi để vay số tiền 92.400.000 đồng, lúc đi có Bà H’ N và bà M T là người cùng xóm với bà H’ KN đi cùng. Khi vay, hai bên thỏa thuận bằng miệng là lãi suất vay là 20%/01 năm, chứ không ghi vào giấy vay tiền, thời hạn vay là 06 tháng. Trong giấy mượn tiền có ghi tên người chứng kiến là MT và người bảo lãnh là H’ N.

Để làm tin, khi vay tiền bà H’ KN có đưa cho tôi 01 giấy mua bán đất lập ngày 21/3/2018 (bản chính) giữa bên bán bà H’ N, ông Y K; bên mua bà H’ KN. Sau đó, bà H’ N cam kết bằng miệng với tôi rằng, nếu bà H’ KN không trả tiền, thì bà H’ N sẽ bán đất này trả nợ cho anh Đ. Bà H’ N đưa cho tôi 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 059794 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin cấp ngày 09/4/2019 mang tên bà H’ N (bản chính). Việc đưa giấy mua bán đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà H’ N là để làm tin chứ không có làm hợp đồng thế chấp hay bảo lãnh gì. Trong giấy vay tiền, có chữ ký và ghi tên người bảo lãnh là bà H’ N.

Kể từ ngày cho vay đến nay, bà H’ KN chưa trả cho tôi khoản tiền vay gốc và lãi suất nào. Nay tôi biết bà H’ KN đang chấp hành án phạt tù tại trại giam Đắk Trung, tôi làm đơn khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết buộc bà H’ KN phải trả cho tôi số tiền vay gốc là 92.400.000 đồng và lãi suất theo thỏa thuận là 20%/01 năm, kể từ ngày vay cho đến ngày Tòa án xét xử vụ án. Sau khi bà H’ KN trả xong khoản tiền vay gốc và lãi suất trên, tôi có nghĩa vụ trả lại cho bà H’ KN 01 giấy mua bán đất lập ngày 21/3/2018 giữa bên bán bà H’ N, ông Y K, bên mua bà H’ KN và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 059794 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin cấp ngày 09/4/2019 mang tên bà H’ NÊban.

*Bị đơn bà H’ KN trình bày:

Vào ngày 06/4/2018 bà H’ KN có vào nhà ông Đoàn Đắc Đ để vay số tiền 92.400.000 đồng, lãi suất 3.000 đồng/01 triệu/01 ngày, thời hạn vay là 06 tháng. Khi vay, bà H’ KN có đưa cho ông Đoàn Đắc Đ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà H’ N. Từ khi vay cho đến nay, bà H’ KN chưa trả cho ông Đ tiền vay gốc và lãi suất nào.

Nay ông Đ làm đơn khởi kiện yêu cầu tôi trả số tiền vay gốc 92.400.000 đồng và lãi suất 20%/năm kể từ ngày vay cho đến nay, thì tôi đồng ý. Tôi sẽ động viên gia đình để trả số tiền vay gốc và lãi suất cho ông Đ. Tôi không đồng ý ông Đoàn Đắc Đ yêu cầu Tòa án xử lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên bà H’ N.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Y D trình bày:

Tôi là chồng của H’ KN, việc vay mượn tiền giữa bà H’ KN và ông Đoàn Đắc Đ như thế nào thì tôi không biết và tôi không sử dụng tiền này dùng chung trong gia đình. Tôi là người chồng, suốt ngày đi làm thuê kiếm tiền để nuôi con.

Nay vì điều kiện gia đình khó khăn, tôi thường xuyên đi làm thuê xa nhà ít khi có mặt tại địa phương, nên tôi đề nghị không triệu tập tôi tham gia tố tụng tại Tòa án.

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà H’ N: Tòa án đã triệu tập nhiều lần, nhưng bà H’ N vẫn cố tình vắng mặt không có lý do. Tòa án đã tiến hành xác minh, niêm yết các văn bản tố tụng để xử vắng mặt theo quy định của pháp luật.

*Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin phát biểu ý kiến:

Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, thụ lý vụ án về quan hệ pháp luật “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” giữa nguyên đơn ông Đoàn Đắc Đ, bị đơn là bà H’ KN là đúng quy định của pháp luật; Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã áp dụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hòa giải và chuẩn bị xét xử. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã áp dụng đúng quy định về trình tự, thủ tục của phiên tòa sơ thẩm.

Về nội dung: Áp dụng Điều 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo hướng: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Đắc Đ. Buộc bị đơn bà H’ KN có nghĩa vụ trả cho ông Đoàn Đắc Đ số tiền 164.513.000 đồng. Trong đó: (Tiền vay gốc 92.400.000 đồng; tiền lãi tính đến ngày xét xử là 72.113.000 đồng).

Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận, nên bị đơn bà H’ KN phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ông Đoàn Đắc Đ khởi kiện, yêu cầu bà H’ KN có nghĩa vụ trả cho ông Đ số tiền 92.400.000 đồng và lãi suất. Đây là quan hệ tranh chấp “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 3, Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại xã Ea Bhốk, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 35; điểm a, khoản 1, điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung tranh chấp: Trên cơ sở lời trình bày của các đương sự cũng như qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Ông Đoàn Đắc Đ là chỗ quen biết với bà H’ KN. Vào ngày 28/8/2018, ông Đoàn Đắc Đ có cho bà H’ KN vay số tiền 92.400.000 đồng (Chín hai triệu, bốn trăm ngàn đồng), thời hạn vay 06 tháng. Ông Đoàn Đắc Đ cũng đã xuất trình chứng cứ chứng minh cho việc khởi kiện là: 01 giấy mượn (vay) tiền lập ngày 06/4/2018, ghi tên người vay tiền là bà H’ KN, số tiền vay là 92.400.000 đồng, thời hạn vay là 06 tháng kể từ ngày 06/4/2018 nhưng không ghi lãi suất trong giấy vay tiền (có văn bản gốc lưu trong hồ sơ vụ án).

Trong quá trình sử dụng tiền vay, bà H’ KN chưa trả được khoản tiền vay gốc và lãi suất cho ông Đoàn Đắc Đ.

Do bà H’ KN đang chấp hành án tại trại giam Đắk Trung – Bộ công an, nên không tiến hành hòa giải được. Tại bản tự khai ngày 02/11/2021, bà H’ KN thừa nhận có vay của ông Đoàn Đắc Đ, số tiền vay là 92.400.000 đồng, kể khi vay cho đến nay, bà H’ KN chưa trả cho ông Đ tiền vay gốc và lãi suất nào. Nay ông Đ làm đơn khởi kiện yêu cầu trả số tiền vay gốc 92.400.000 đồng và lãi suất 20%/năm kể từ ngày vay cho đến nay, thì bà H’ KN đồng ý. Bà H’ KN sẽ động viên gia đình để trả số tiền vay gốc và lãi suất cho ông Đ.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, việc các bên thiết lập quan hệ hợp đồng vay tài sản (tiền) là hoàn toàn tự nguyện và đúng các quy định pháp luật, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các bên. Nay bà H’ KN đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên vay tài sản, vì vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Đắc Đ. Buộc bà H’ KN phải trả cho ông Đoàn Đắc Đ số tiền vay gốc 92.400.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự 2015.

Về lãi suất: Tại các buổi làm việc và tại phiên tòa, ông Đoàn Đắc Đ đồng ý cho vợ chồng bà H’ KN trả tiền lãi đối với số tiền vay gốc 92.400.000 đồng là 20%/năm kể từ ngày vay tiền cho đến nay, bà H’ KN đồng ý trả cho ông Đ số tiền vay gốc 92.400.000 đồng và lãi suất là 20%/năm. Căn cứ vào khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất, thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay”. Vì vậy, mức lãi suất thỏa thuận giữa các bên là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Tiền vay gốc và lãi suất được tính đến ngày xét xử cụ thể như sau:

- Ngày 06/4/2018 vay số tiền là 92.400.000 đồng.

Tiền lãi được tính từ ngày 06/4/2018 đến ngày xét xử 28/02/2022 là 46 tháng, 22 ngày. Tiền lãi được tính như sau: 92.400.000 đồng x 1,67%/tháng x 46 tháng, 22 ngày = 72.113.272 đồng.

Tổng cộng tiền gốc và lãi là: 164.513.272 đồng, làm tròn 164.513.000 đồng. Trong đó: (Tiền vay gốc 92.400.000 đồng; tiền lãi tính đến ngày xét xử 71.113.000 đồng).

Đối với 01 giấy mua bán đất lập ngày 21/3/2018 giữa bên bán bà H’ N, ông Y K, bên mua bà H KN và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 059794 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin cấp ngày 09/4/2019 mang tên bà H’ N. Khi vay tiền, bà H’ KN đưa các giấy tờ trên là để làm tin chứ không có làm hợp đồng thế chấp hay bảo lãnh gì. Vì vậy sau khi bà H’ KN trả tiền cho ông Đ thì ông Đ có nghĩa vụ trả lại các giấy tờ trên cho bà H’ KN.

[5] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bà H’ KN phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[6] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; Điều 39; Điều 144 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Điều 463, 466 và 468 Bộ luật Dân sự 2015.

- Căn cứ khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định án phí, lệ phí Tòa án.

Tuy ên x ử : Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của ông Đoàn Đắc Đ.

1. Buộc bà H’ KN có nghĩa vụ trả cho ông Đoàn Đắc Đ số tiền 164.513.000 đồng. Trong đó: (Tiền vay gốc 92.400.000 đồng; tiền lãi tính đến ngày xét xử là 72.113.000 đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án tại thời điểm thanh toán.

Sau khi bà H KN trả xong khoản tiền vay gốc và lãi suất cho ông Đoàn Đắc Đ, thì ông Đoàn Đắc Đ có nghĩa vụ trả lại cho bà H KN 01 giấy mua bán đất lập ngày 21/3/2018 giữa bên bán bà H’ N, ông Y K, bên mua bà H’ KN và 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 059794 do Ủy ban nhân dân huyện Cư Kuin cấp ngày 09/4/2019 mang tên bà H N (tất cả đều là bản gốc).

2. Về án phí: Bà H’ KN phải nộp 8.226.000 đồng (tám triệu, hai trăm hai mươi sáu ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Ông Đoàn Đắc Đ không phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm, được nhận lại số tiền 3.707.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số 0001807 ngày 17/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 03/2022/DS-ST

Số hiệu:03/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về