Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2021/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 02/2021/DS-ST NGÀY 27/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 08/2021/TLST-DS ngày 25 tháng 3 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2021/QĐXXST - DS ngày 05 tháng 7 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 02/2021/ QĐST - DS ngày 14/7/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1970 và chị Lê Thị T, sinh năm 1974 Cùng địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện B, Lào Cai. Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn Th: Chị Lê Thị T - có mặt tại phiên toà.

2. Bị đơn:

- Anh Trần Văn N, sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn T, thị trấn Nông T, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.

- Anh Trần Văn P, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn T, thị trấn Nông T, huyện B, tỉnh Lào Cai - (Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02 không có lý do).

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện của anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị T đề ngày 18/3/2021 và bản tự khai ngày 25/3/2021, chị Lê Thị T trình bầy: Do có mối quan hệ quen biết với anh Trần Văn N và anh Trần Văn P nên vợ chồng chị có anh N và anh P vay tiền mặt cụ thể như sau:

Ngày 02/11/2017, vợ chồng chị có cho anh Trần Văn Ng và anh Trần Văn P vay số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng chẵn), không lãi xuất, thời hạn vay 01 tháng, anh Ng và anh P là người viết giấy vay tiền với vợ chồng chị, khi đến hạn anh Ng và anh P không trả cho vợ chồng chị số tiền trên, đến ngày 15/6/2018 anh N mới trả cho vợ chồng chị số tiền 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng), số tiền còn nợ lại là 100.000.000đồng, anh N hẹn vợ chồng chị sau 03 tháng xẽ trả đủ số tiền còn nợ; tuy nhiên từ đó đến nay anh N và anh Ph không trả cho vợ chồng chị được đồng nào, mặc dù vợ chồng chị đã đòi nợ nhiều lần nhưng anh N và anh Ph khất lần không trả. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Trần Văn Nghĩa và anh Trần Văn Ph phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng chị số tiền còn nợ là 100.000.000đồng (Một trăm triệu đồng) chị không yêu cầu anh N và anh P trả tiền lãi xuất.

Tại bản tự khai ghi ngày 06/4/2021 của (bị đơn) anh Trần Văn Ng trình bày: Ngày 02/11/2017 anh có ký vào giấy vay tiền mặt của anh Nguyễn Văn Th số tiền là 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng) nhưng thực tế anh không được nhận số tiền 200.000.000đồng của anh T, số tiền này là do em trai anh là anh Trần Văn P có nợ vợ chồng anh chị TT  từ trước đến ngày 02/11/2017 vợ chồng anh chị T T mới gọi anh đến nhà và bảo anh ký vào chỗ người vay tiền trong giấy vay tiền mặt ngày 02/11/2017. Đến ngày 15/6/2018 anh đã trả cho vợ chồng anh chị TT số tiền 100.000.000đồng (Số tiền 100.000.000đồng này là tiền riêng của anh, anh Ph không góp một đồng nào), anh là người viết giấy trả nợ 100.000.000đồng cho anh chị TT và ghi còn nợ anh chị T 100.000.000đồng, hẹn 03 tháng sau sẽ trả nốt cho anh chị TT. Tuy nhiên sau ngày 15/8/2018 anh vẫn trả tiền lãi xuất cho vợ chồng anh chị TT đến cuối năm 2020 số tiền lãi là 3.000.000đồng/tháng, tiền lãi anh chỉ đưa tay cho vợ chồng anh chị TT chứ không có giấy tờ gì, còn tiền gốc do điều kiện gia đình anh khó khăn nên anh chưa trả cho anh chị TT. Nay vợ chồng anh chị TT khởi kiện yêu cầu anh và anh P phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng anh chị TT số tiền 100.000.000đồng, quan điểm của anh không nhất trí, theo anh số tiền còn nợ 100.000.000đồng anh P phải có nghĩa vụ trả cho vợ chồng anh chị TT.

Tại bản tự khai ghi ngày 22/5/2021 của (bị đơn) anh Trần Văn P trình bày: Trước ngày 02/11/2017 anh có vay của vợ chồng anh chị T T 200.000.000đồng, lãi xuất 5.000đồng/1.000.000đồng/ngày, anh vẫn trả tiền lãi đầy đủ, tiền lãi xuất anh chỉ đưa tay cho vợ chồng anh chị TT chứ không có giấy tờ gì. Ngày 02/11/2017 vợ chồng anh chị T T mới yêu cầu anh và anh trai anh là anh Trần Văn Ngh viết giấy vay tiền mặt, và ký vào giấy vay tiền mặt của anh Nguyễn Văn Th số tiền là 200.000.000đồng, không lãi xuất, thời hạn vay 01 tháng, anh và anh Ng không trả được số tiền 200.000.000đồng thì mỗi tháng anh và anh Ng phải trả cho vợ chồng anh chị TT tiền lãi là 6.000đồng/tháng. Đến ngày 15/6/2018 anh Ng đã trả cho vợ chồng anh chị ThT số tiền 100.000.000đồng, số tiền 100.000.000đồng này là tiền riêng của anh Ng, anh không đóng góp một đồng nào, anh Nghĩa là người viết giấy trả nợ cho vợ chồng anh chị T T 100.000.000đồng và ghi còn nợ anh chị Th T 100.000.000đồng, hẹn 03 tháng sau sẽ trả cho anh chị T T số tiền còn nợ là 100.000.000đồng. Tuy nhiên sau ngày 15/8/2018 anh chưa trả cho vợ chồng anh chị T T được khoản tiền nào. Nay vợ chồng anh chị Th T khởi kiện yêu cầu anh và anh N phải có trách nhiệm trả cho vợ chồng anh chị T T số tiền 100.000.000đồng, quan điểm của anh về số tiền còn nợ vợ chồng anh chị T T là anh xẽ có trách nhiệm trả cho anh chị T T, vì số tiền này không liên quan đến anh Ng nữa.

Đối với vụ án này Tòa án đã mở phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, do anh Trần Văn P vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản không hòa giải được, vì vắng mặt bị đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị T khởi kiện tranh chấp hợp đồng vay tài sản với anh Trần Văn Nghĩa và anh Trần Văn P đảm bảo điều kiện theo quy định của pháp luật; anh Th, chị T đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã B, huyện B, tỉnh Lào Cai. Anh Nghĩa, anh P đều có đăng ký hộ khẩu tại thôn T, thị trấn N, huyện B, tỉnh Lào Cai. Vì vậy đây là tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai theo quy định tại Điều 26 và Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Ngày 02/11/2017 anh Trần Văn N và anh Trần Văn P có viết và ký vào giấy vay tiền mặt của anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị T số tiền 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng), không lãi xuất, thời hạn trả nợ 01 tháng; ngày 15/8/2018 anh Trần Văn Ngh đã trả cho anh T chị T được 100.000.000đồng, còn nợ anh Th chị T 100.000.000đ.

Tại phiên tòa hôm nay chị Lê Thị T là nguyên đơn và là người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn Th giữ nguyên yêu cầu đề nghị Tòa án giải quyết buộc anh Trần Văn N và anh Trần Văn P phải có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Nguyễn Văn Th, chị Lê Thị T số tiền nợ gốc vay ngày 02/11/2017 là 100.000.000đồng, chị không yêu cầu anh N và anh P trả tiền lãi xuất.

Đối với anh Trần Văn Ng, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh không nhất trí trả vợ chồng anh chị Th T số tiền 100.000.000đồng, anh cho rằng số tiền còn nợ 100.000.000đồng này là thuộc về nghĩa vụ trả nợ của anh Trần Văn P.

Đối với anh Trần Văn P vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình giải quyết cũng như tại bản tự khai của anh P thì anh cũng cho rằng số tiền còn nợ vợ chồng anh chị T T 100.000.000đồng là thuộc về nghĩa vụ trả nợ của anh.

Trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị T cung cấp chứng cứ là 01 giấy vay tiền mặt ghi ngày 02/11/2017 có chức ký người vay Trần Văn N, Trần Văn P với nội dung có vay anh Nguyễn Văn Th số tiền 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng), thời hạn vay 01 tháng (BL 38) và chứng cứ là giấy trả tiền ghi ngày 15/6/2018 do anh Trần Văn N ghi có nội dung (anh Trần Văn Ng đã trả cho ông bà T T 100.000.000đồng và hẹn 03 tháng sau sẽ trả anh chị T T số tiền còn lại là 100.000.000đồng, ký người trả tiền Trần Văn N người nhận tiền Lê Thị T (BL 39).

Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án anh N và anh P đều thừa nhận có ký vào giấy vay tiền mặt của vợ chồng anh Th số tiền 200.000.000đồng. ngày 15/6/2018 anh N đã trả vợ chồng anh T T 100.000.000đồng, số tiền còn nợ 100.000.000đồng và hen 03 tháng sau sẽ trả nốt cho vợ chồng anh chị Th T, tuy nhiên sau 03 tháng anh Ng và anh Ph không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho vợ chồng anh chị Th T. Vì thế xét yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị T yêu cầu anh Trần Văn N và anh Trần Văn P phải có nghĩa vụ liên đới trả cho anh T, chị T số tiền nợ gốc vay ngày 02/11/2017 là 100.000.000đồng là có căn cứ, vì vậy HĐXX cũng cần buộc anh Trần Văn N và anh Trần Văn P phải có nghĩa vụ liên đới trả cho anh T, chị T số tiền nợ gốc vay ngày 02/11/2017 là 100.000.000đồng; phần của anh Ng 50.000.000đồng, phần của anh P 50.000.000đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Anh T, chị T không yêu cầu anh N và anh P trả tiền lãi xuất, vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

3] Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 288, 290; Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự 2015; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn Th và chị Lê Thị Tám.

- Xử buộc anh Trần Văn Ng, anh Trần Văn ph phải có nghĩa vụ liên đới trả cho anh Nguyễn Văn Th, chị Lê Thị T số tiền nợ gốc vay ngày 02/11/2017 là 100.000.000đồng; Phần của anh Trần Văn Nghĩa là 50.000.000đồng; Phần của anh Trần Văn Ph là 50.000.000đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền nêu trên, thì hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự.

2. Về án phí: Anh Trần Văn Ng, anh Trần Văn P mỗi người phải chịu 2.500.000đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Nguyễn Văn Th, chị Lê Thị Tám không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, anh T, chị T được hoàn lại 2.500.000đồng tiền tạm ứng án phí mà anh, chị đã nộp theo biên lai số 0002779 ngày 25/3/2021, tại chi cục thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lào Cai.

“ Trong trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại điều 02 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6,7, 7a và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 luật thi hành án dân sự ”.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn và là người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn Th, bị đơn anh Trần Văn Nghĩa; Vắng mặt bị đơn anh Trần Văn P. Nguyên đơn, bị đơn anh Trần Văn Nghĩa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn anh Trần Văn Ph có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

195
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 02/2021/DS-ST

Số hiệu:02/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về