TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA S, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 01/2024/DS-ST NGÀY 15/01/2024 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nga S xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 32/2023/TLST-DS ngày 16 tháng 10 năm 2023 về “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2023 /QĐXX-ST ngày 28 tháng 12 năm 2023, giữa các đương sự:
1/ Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn S - Sinh năm 1991.
Địa chỉ: Thôn 3 Bái Trung, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).
2/ Bị đơn: Bà Đỗ Thị M - Sinh năm 1967;
Địa chỉ: Thôn 5, xã N, huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa (có mặt).
3/ Người làm chứng: Anh Phạm Văn T - Sinh năm 1986;
Địa chỉ: Thôn 5, xã N, huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 16/10/2023, bản tự khai, nguyên đơn anh Nguyễn Văn S trình bày: Ngày 26/7/2023, anh cho bà Đỗ Thị M vay số tiền 60.000.000đ để bà M đảo sổ Ngân hàng; khi vay hai bên có viết giấy vay tiền có đầy đủ chữ ký bên vay, bên cho vay và người làm chứng là anh Phạm Văn T; hẹn ngày 02/8/2023 sẽ thanh toán số tiền vay trên cho anh. Nếu bà M không trả được nợ vay thì bà sẽ trả bằng 03 con trâu mẹ. Quá thời hạn trả nợ, nhưng bà M không có động thái trả nợ số tiền vay cho anh. Anh đã có đơn gửi đến UBND xã Nga Phượng nhưng không hòa giải thành. Để đảm bảo quyền lợi, anh đề nghị bà M trả số tiền vay trên cho anh; về lãi suất: anh không yêu cầu.
Đối với bị đơn bà M trình bày: Theo giấy vay tiền đề ngày 26/7/2023, viết tay bà là người viết giấy vay anh S số tiền 60.000.000đ; hẹn ngày trả là 02/8/2023. Nếu trả không đúng hẹn thì anh S bắt 3 con trâu. Trên giấy vay không thỏa thuận về lãi suất. Anh S yêu cầu bà trả số tiền vay trên, thì bà có ý kiến: Đồng ý sẽ trả số tiền trên cho anh S theo giấy bà đã ghi. Thời gian trả: khi nào lấy được tiền từ anh T, bà sẽ trả nợ cho anh S vì bà vay của anh S để giúp anh T. Về lãi suất: anh S không yêu cầu nên bà đồng ý. Bà đề nghị Tòa án đưa anh T vào tham gia tố tụng trong vụ án là người làm chứng.
* Ý kiến anh Phạm Văn T: Ngày 24/7/2023, bà M có sang nhà anh nói chuyện về việc nhà bà đã đến hạn trả nợ Ngân hàng. Do anh có vay bà M 80.000.000đ nên bà M có yêu cầu anh thu xếp trả nợ để bà trả nợ cho Ngân hàng. Gia đình anh đang gặp khó khăn nên không lo được tiền. Sau đó, bà M đã có những hành động ngăn cản như: không cho anh làm việc, tắt hết các thiết bị điện quạt chạy cho tôm, cá ăn, không cho anh chở cám cho vịt ăn.
Về mối quan hệ giữa anh và anh S: do hai bên có quen biết trong làm ăn nên có điện thoại nói chuyện anh S đề nghị cho bà M vay số tiền là 80.000.000đ. Đến ngày 25/7/2023, anh S sang nhà và trao đổi với bà M chỉ giúp được số tiền 60.000.000đ; không tính lãi suất. Số ngày vay do bà M tự chọn, phải có tài sản thế chấp. Đến ngày 26/7/2023, anh S sang bà M ngồi nói chuyện, mục đích đáo sổ Ngân hàng. Bà M đồng ý vay 60.000.000đ và thế chấp bằng 3 con trâu mẹ. Việc bà M vay mượn tiền của anh S là chuyện của hai người không liên quan anh. Còn việc anh có vay tiền của bà M thì đang được Tòa án giải quyết bằng vụ án khác.
Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, anh S và bà M thống nhất được nội dung: số tiền gốc vay; không yêu cầu tính lãi suất và xử lý tài sản thế chấp; về phương thức trả nợ: bà M đề nghị khi nào lấy được tiền nợ của anh T thì bà M sẽ trả cho anh S số tiền đã vay.
Do các đương sự không thống nhất nội dung giải quyết, nên Tòa án đã đưa vụ án ra xét xử theo quy định.
Mặc dù anh Phạm Văn T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nhưng vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xét xử vắng mặt). Căn cứ khoản 2 Điều 229 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử (HĐXX) vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
* Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Nga S.
* Về nội dung vụ án:
[1] Xét yêu cầu của nguyên đơn: Theo giấy vay tiền, viết tay đề ngày 26/7/2023, số tiền anh S cho bà M vay là 60.000.000đ; thời hạn vay thỏa thuận đến ngày 02/8/2023 bà M sẽ trả số tiền vay cho anh S, không thỏa thuận về lãi suất thanh toán; bà M cam kết không trả số nợ trên sẽ đồng ý để anh S bắt ba con trâu của gia đình bà M.
Quá thời hạn, nhưng bà M không có động thái trả nợ như cam kết. Anh S yêu cầu bà M phải trả số tiền đã vay là 60.000.000đ; về lãi suất: anh S không yêu cầu; về tài sản thế chấp là 3 con trâu của gia đình bà M, anh S không yêu cầu xử lý nữa.
[2] Xét việc bị đơn vay tiền của nguyên đơn: Về số tiền vay, ngày tháng năm vay; thời hạn trả nợ, bà M thống nhất như nguyên đơn yêu cầu. Lý do bà không trả nợ đúng như cam kết là do anh T vay tiền của bà chưa trả nên bà chưa có tiền để trả nợ cho anh S.Bà đồng ý trả số tiền vay cho anh S theo giấy vay tiền bà đã viết cho anh S khi bà lấy được tiền từ anh T.
[3] Xét lời trình bày của người làm chứng: Đối với giấy vay tiền giữa bà M và anh S thì bên vay là bà M, bên cho vay là anh S; anh T chỉ ký vào mục người làm chứng, không có nội dung nào thể hiện việc anh T vay lại số tiền này từ bà M.
[4] Từ những căn cứ trên, Hội đồng xét xử thấy rằng: Về số tiền vay, ngày vay tại giấy vay tiền đã được bà M viết cho anh S đã được hai bên thống nhất. Do bà M vi phạm cam kết trả nợ nên anh S yêu cầu bà M trả lại số tiền gốc vay 60.000.000đ là có căn cứ nên HĐXX chấp nhận xem xét.
Về phương thức trả nợ: bà M đồng ý trả nợ số tiền vay trên cho anh S khi lấy được tiền từ anh T, xét yêu cầu này của bà M là không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Về lãi suất và tài sản thế chấp là 03 con trâu mẹ được ghi trên giấy vay tiền, anh S không yêu cầu đối với bà M nên HĐXX miễn xét.
[5] Về án phí: Bà Đỗ Thị M phải chịu án phí DSST theo quy định; Hoàn trả lại tiền tạm ứng án phí DSST anh S đã nộp theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 Điều 147; khoản 2 Điều 229; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 465; Điều 466; Điều 468 và Điều 470 của Bộ luật dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 24; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí kèm theo.
Xử:
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Văn S, buộc bà Đỗ Thị M phải có nghĩa vụ trả cho anh S số tiền nợ gốc là 60.000.000đ (Sáu mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành, thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
2/ Về án phí: Bà Đỗ Thị M phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm (DSST) là 3.000.000đ (Ba triệu đồng).
Hoàn trả lại cho anh Nguyễn Văn S số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.500.000 (Một triệu năm trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2021/0016623, ngày 16/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa.
3/ Quyền kháng cáo: Anh S, bà M có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 01/2024/DS-ST
Số hiệu: | 01/2024/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về