Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 01/2020/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ - TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 01/2020/DS-ST NGÀY 16/01/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 44/2019/TLST-DS ngày 01 tháng 10 năm 2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2019/QĐXXST-DS ngày 11 tháng 12 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/QĐST-DS ngày 31 tháng 12 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị X, sinh năm 1969; Địa chỉ: số 112/1 đường Đô Đốc B, phường T, thành phố Q, tỉnh Bình Định, có mặt tại phiên tòa.

Bị đơn: Anh Lê Trung T, sinh năm 1970 và chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1972; Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện Đ, tỉnh Gia Lai, (anh T có mặt, chị P vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/9/2019 và bản tự khai ngày 01/10/2019, chị Lê Thị X trình bày: Do chỗ bạn bè quen biết nên vào ngày 10/6/2018 chị X cho anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P mượn số tiền 360.000.000đồng để mua xe làm ăn, anh T và chị P có viết biên bản (giấy) mượn tiền và cùng ký tên, thời hạn mượn là 03 tháng và không tính lãi. Đến nay anh T và chị P mới trả cho chị X số tiền 10.000.000đồng, số tiền còn lại mặc dù chị X đòi nhiều lần nhưng anh T và chị P không trả. Nay chị X yêu cầu Tòa án buộc anh T và chị P phải trả số tiền còn nợ là 350.000.000đồng và không yêu cầu tính lãi.

Tại bản tự khai ngày 12/11/2019 anh Lê Trung T trình bày: anh T có mượn chị X số tiền 360.000.000đồng và đã trả được 10.000.000đồng, còn nợ lại 350.000.000đồng. Hiện tại gia đình anh T gặp khó khăn nên mỗi năm anh T trả cho chị X 50.000.000đồng, nếu làn ăn ổn định sẽ trả luôn số tiền còn lại.

Chị Nguyễn Thị P không đến Tòa án để tham gia tố tụng nên không có lời khai trong hồ sơ vụ án.

Các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn đã giao nộp cho Tòa án để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện: 01 biên bản (giấy) mượn tiền đề ngày 10/6/2018; 01 bản sao giấy chứng minh nhân dân, 01 bản sao sổ hộ khẩu và 01 bản tự khai của chị Lê Thị X, ngày 01/10/2019.

Tài liệu, chứng cứ do bị đơn đã giao nộp cho Tòa án để chứng minh: 01 bản tự khai của anh Lê Trung T ngày 11/12/2019.

Tại biên bản hòa giải ngày ngày 12/11/2019 chị X và anh T thống nhất, anh T còn nợ chị X số tiền 350.000.000đồng. Do không có chị P tham gia tố tụng nên không thống nhất được toàn bộ nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị X có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai giải quyết buộc anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P phải trả toàn bộ khoản nợ vay. Theo quy định tại khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án đã triệu tập hợp lệ chị Nguyễn Thị P tham gia tố tụng, nhưng chị P không đến Tòa án để tham gia tố tụng tại phiên tòa. Do đó, Tòa án tiến hành theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

[2] Xét về nội dung vụ án: Qua lời khai của chị X tại phiên tòa và các chứng cứ do các đương sự cung cấp đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận vào ngày 10/6/2018 anh T và chị P có mượn chị X số tiền 360.000.000đồng và thỏa thuận bằng miệng 03 tháng sau sẽ trả lại cho chị X số tiền trên. Đến hạn nhưng anh T và chị P không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, sau đó anh T có trả cho chị X số tiền là 10.000.000đồng, mặc dù chị X đòi nhiều lần nhưng anh T và chị P không trả số tiền còn lại. Nay chị X yêu cầu Tòa án buộc anh T và chị P trả số tiền còn lại là 350.000.000đồng và không tính lãi.

Xét về biên bản (giấy) mượn ngày 10/6/2018 được xem là hợp đồng vay tài sản giữa các bên được lập bằng văn bản, về nội dung ghi số tiền cụ thể và chữ ký của người vay tiền. Giữa các bên không có thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nợ, nhưng chị X đòi nhiều lần anh T và chị P không trả số tiền còn lại là vi phạm nghĩa vụ thực hiện hợp đồng như đã thỏa thuận được quy định tại Điều 463 và khoản 1 Điều 466 của Bộ luật dân sự. Do đó việc chị X yêu cầu Tòa án buộc anh T và chị P trả số tiền 350.000.000đồng là đúng pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Chị X không yêu cầu tính lãi nên Hội đồng xét xử không xem xét để giải quyết. Xét về quan hệ gia đình giữa anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P là vợ chồng và cả hai người cùng ký tên vào biên bản (giấy) mượn tiền ngày 10/6/2018. Mục đích của việc mượn tiền là phục vụ cho lợi ích chung của gia đình. Do đó, cần phải buộc anh T và chị P có nghĩa vụ liên đới để thực hiện nghĩa vụ trả nợ chung.

Từ những nhận định trên buộc anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Lê Thị X toàn bộ số tiền nợ là 350.000.000đồng.

[3] Về án phí: Toàn bộ yêu cầu của chị Lê Thị X được Tòa án chấp nhận nên không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 463; Điều 466 và khoản 1 Điều 468 của Bộ luật dân sự; khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

[1] Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị X.

Buộc anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Lê Thị X toàn bộ số tiền nợ là 350.000.000đồng (ba trăm năm mươi triệu đồng).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng còn phải trả cho người được thi hành án tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, mức lãi suất được xác định theo sự thỏa thuận giữa các bên nhưng không được vượt quá lãi suất giới hạn theo khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015. Nếu không có sự thỏa thuận thì mức lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015, tại thời điểm thanh toán.

[2] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Lê Thị X không phải chịu án phí. Hoàn trả lại cho chị X số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 8.750.000đồng (tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng phí, lệ phí Tòa án số 0004462 ngày 01/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Gia Lai.

Buộc anh Lê Trung T và chị Nguyễn Thị P phải liên đới nộp 17.500.000đồng (mười bảy triệu năm trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

[3] Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[4] Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 16/01/2020. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản số 01/2020/DS-ST

Số hiệu:01/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đăk Đoa - Gia Lai
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 16/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về